”Trung Quốc đã gửi 320.000 quân đến giúp Bắc Việt trong giai đoạn 1965-68, ” – Trung Quốc và Những cuộc Chiến tranh Việt Nam, 1950 -1975
Posted by hoangtran204 trên 03/01/2014
Trích: “Trung Quốc đã gửi khoảng 320 nghìn quân đến giúp Bắc Việt trong giai đoạn 1965-68, và hơn một nghìn người trong họ đã bị thiệt mạng ở đó, và Mao đã sẵn sàng đánh nhau trực tiếp với người Mỹ vào năm 1968 nếu họ đổ bộ lên Bắc Việt.”
Năm 1960, khi Mỹ chưa đổ quân vào miền Nam thì đảng CSVN đã gọi Mỹ là “bọn xâm lược Mỹ”. Mỹ chỉ thật sự đổ quân vào Miền Nam năm 1965 và từ từ rút khỏi Miền Nam từ 1971-1973. (Mỹ đổ quân vào Miền Nam vì sợ Miền Nam rơi vào tay cộng sản, vì hàng trăm ngàn bộ đội Miền Bắc xâm nhập vào Miền Nam đánh nhau dọc theo biên giới Kampuchea – VN và Lào- Việt Nam; Bộ đội cộng sản VN hoạt động trong các tỉnh thành và thi hành chính sách khủng bố, ám sát, ném lựu đạn vào rạp hát và đám đông, gài mìn trên đường lộ giết thường dân di chuyển bằng xe đò diễn ra khắp 18 tỉnh thành miền Nam.)
Sau trận hải chiến Hoàng Sa 19-1-1974, thì đây là ►Lập trường của Đảng CSVN về Hoàng Sa khi Trung Cộng xâm chiếm vào ngày 19-1-1974. Khi Trung Quốc chiếm nhiều đảo trong quần đảo Trường Sa 1988, thì Đảng CSVN im lặng, không hề phản kháng! Đây chính là hành động xâm lược của Trung Quốc, nhưng Đảng CSVN và Nhà Nước hiện nay không dám gọi Trung Quốc là bọn xâm lược. “một cuộc xâm lược là một cuộc tấn công bằng lực lượng từ bên ngoài vào. Mục đích của xâm lược là mở rộng phạm vi trong thời gian dài nên cần một lược lực lượng có quy mô lớn để giữ đất đai, lãnh thổ và bảo vệ quyền lợi trên lãnh thổ xâm chiếm.”.
“… người Nga và người Trung Quốc đã ép buộc Việt Minh phải chấp nhận việc chia cắt đất nước vào năm 1954,”
“Rằng Trung Quốc đã gặp khó khăn rất lớn trong việc giải thích với Bắc Việt về chuyến thăm Bắc Kinh của Nixon vào năm 1972, rằng họ đã tìm cách bù đắp bằng cách tăng cường tiếp tế quân sự cho Hà Nội trong giai đoạn cuối của quá trình đàm phán ngưng bắn”
Trung Quốc và Những cuộc Chiến tranh Việt Nam, 1950 -1975
Tác giả: Địch Cường (Qiang Zhai)
Biên tập: John Lewis Gaddis
Nhà Xuất bản: University of North Carolina Press, Chapel Hill & London
Biên tập: John Lewis Gaddis
Nhà Xuất bản: University of North Carolina Press, Chapel Hill & London
DẪN NHẬP
Trung Quốc và Những Cuộc Chiến tranh Việt Nam, 1950-1975 là một đóng góp nổi bật cho lịch sử quốc tế về Chiến tranh Lạnh nói chung và cho lịch sử quốc tế về cuộc Chiến tranh Việt Nam nói riêng. Các nhà sử học từ lâu đã phỏng đoán về mối quan hệ giữa Cộng hoà Nhân dân Trung Quốc và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trong một phần tư thế kỷ chiến tranh tại Đông Dương, kéo dài từ 1950 đến 1975. Cho đến khi cuốn sách này xuất bản thì chúng ta mới biết được thực sự.
Với lối viết rõ ràng và thông suốt đáng ngưỡng mộ, Địch Cường đã dùng hàng loạt những nguồn thông tin đầy ấn tượng từ văn khố Trung Quốc vừa được công bố, các hồi ký, nhật ký, và tuyển tập tài liệu để kể lại việc Trung Quốc đã giúp đỡ Cộng sản Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống lại nguời Pháp và sau đó là người Mỹ. Sau đây là một số khám phá nổi bật từ nghiên cứu của ông:
Rằng Mao Trạch Đông nhìn nhận phong trào giải phóng dân tộc của Việt Nam trên khía cạnh ý thức hệ lẫn địa chính trị. Cuộc đấu tranh này nhận được hỗ trợ mạnh mẽ vì nó là một phần của chiến lược lớn hơn của ông ta trong việc thiết lập một trật tự thế giới chống đế quốc, nhưng cùng lúc ông cũng không sẵn sàng tách mục đích này ra khỏi quyền lợi của Trung Quốc trong việc cân bằng sự đối chọi giữa Liên Sô và Hoa Kỳ. Đây là một nghiên cứu nổi bật về sự giao thoa giữa quyết tâm cách mạng và chính sách thực dụng trong suy tính của Mao.
Rằng viện trợ quân sự của Trung Quốc thì rất quan trọng đối với Việt Minh trong cuộc kháng chiến chống Pháp trước khi có những thoả thuận từ hiệp định Geneva 1954. Mức độ của nguồn viện trợ này thật là đáng ngạc nhiên vì lúc ấy Trung Quốc cũng đang tham dự vào Chiến tranh Triều Tiên.
Rằng người Nga và người Trung Quốc đã, như chúng ta vốn nghi ngờ từ lâu, ép buộc Việt Minh phải chấp nhận việc chia cắt đất nước vào năm 1954, nhưng rồi sau đó Trung Quốc lại hối tiếc, thái độ độ này đã góp phần vào sự chia rẽ Trung-Sô cũng như việc Bắc Kinh ủng hộ Bắc Việt leo thang chiến tranh với người Mỹ và Nam Việt Nam trong những năm đầu 1960.
Rằng Trung Quốc đã gửi khoảng 320 nghìn quân hậu thuẫn đến Bắc Việt trong giai đoạn 1965-68, và hơn một nghìn người trong họ đã bị thiệt mạng ở đó, và Mao đã sẵn sàng đánh nhau trực tiếp với người Mỹ vào năm 1968 nếu họ đổ bộ lên Bắc Việt.
Rằng Bắc Việt đã không tham vấn Trung Quốc khi họ bắt đầu đàm phán với người Mỹ vào năm 1968, và ảnh hưởng của Trung Quốc đối với Bắc Việt đã giảm thiểu từ đấy, trong khi ảnh hưởng của Liên Sô tăng dần.
Rằng Trung Quốc đã gặp khó khăn rất lớn trong việc giải thích với Bắc Việt về chuyến thăm Bắc Kinh của Nixon vào năm 1972, rằng họ đã tìm cách bù đắp bằng cách tăng cường tiếp tế quân sự cho Hà Nội trong giai đoạn cuối của quá trình đàm phán ngưng bắn, và rằng – bất chấp mối giao hảo với người Mỹ – Mao vẫn mạnh mẽ hậu thuẫn việc Pol Pot và Khmer Đỏ nắm chính quyền tại Cambodia vào năm 1975.
Rằng giờ đây ta biết được cuộc Chiến Trung-Việt năm 1979 bắt nguồn từ mối rạn nứt của liên minh Trung-Việt từ cuối thập niên 1960 và đầu 1970.
Đây chỉ là vài điểm sáng tỏ có được từ tài liệu nghiên cứu mang tính mở đường này. Lần đầu tiên nó đã làm nổi bật vai trò quan trọng của Trung Quốc trong Chiến tranh Việt Nam. Trên cả mọi thứ, “Lịch sử Mới của cuộc Chiến tranh Lạnh” dựa vào việc xem xét lại những gì chúng ta từng cho rằng mình đã hiểu bằng cách truy cập các tài liệu lưu trữ của “phía bên kia”. Cuốn sách này là khuôn mẫu của những nghiên cứu thuộc dạng này. Chắc chắn nó sẽ định hình kiến thức của chúng ta đối với cuộc Chiến tranh Lạnh tại Đông nam Á trong nhiều thập niên tới.
John Lewis Gaddis
Tháng Năm 1999
Tháng Năm 1999
GIỚI THIỆU
Quá trình thăng trầm của liên minh Trung-Việt là một trong những diễn tiến quan trọng nhất đối với lịch sử Chiến tranh Lạnh tại Châu Á nói chung và với quan hệ ngoại giao Trung Quốc nói riêng [1].
Trong một phần tư thế kỷ sau khi nước Cộng hoà Nhân dân Trung Quốc (CHNDTQ) ra đời vào năm 1949, Bắc Kinh đã giúp đỡ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (VNDCCH) đấu tranh chống lại hai kẻ thù hùng mạnh là Pháp và Mỹ.
Trong những năm 1950, các công thức của Trung Quốc được dùng làm khuôn mẫu cho Đảng Lao động Việt Nam (ĐLĐVN) trong cuộc kháng chiến chống Pháp và trong nỗ lực tái xây dựng miền bắc.
Trong những năm 1960, Bắc Kinh đã cung cấp rất nhiều viện trợ để giúp Hồ Chí Minh chống lại Hoa Kỳ. Hậu thuẫn của Trung Quốc rất quan trọng trong việc ĐLĐVN đánh thắng người Pháp vào năm 1954 cũng như trong khả năng chống trả áp lực của Mỹ trong cuộc Chiến tranh Đông dương Lần 2. Vào thời điểm đoàn kết nhất giữa VNDCCH và Trung Quốc, Hồ Chí Minh đã xem quan hệ giữa hai bên “vừa là đồng chí vừa là anh em.”
Tuy nhiên, trong đầu thập niên 1970, khi cuộc chiến tranh Việt Nam bắt đầu giảm cường độ và Trung Quốc đang sắp xếp lại các ưu tiên chiến lược của mình bằng cách cởi mở với Hoa Kỳ nhằm cân bằng mối đe doạ từ Liên Sô, mối quan hệ của Bắc Kinh với Hà Nội bắt đầu rạn nứt, với hệ quả là cuộc giao tranh trực tiếp vào năm 1979.
Nói chung, tầm quan trọng của Trung Quốc trong hai cuộc chiến tranh Việt Nam đã bị bỏ qua hoặc bị đánh giá thấp trong các tài liệu của Việt Nam lẫn phương Tây.[2] Các tác giả Việt Nam thường cố ý bác bỏ vai trò của Trung Quốc để nhằm tạo ra một “lịch sử mang tính dân tộc,”[3] trong khi việc khó truy câp các tài liệu lưu trữ tại Trung Quốc đã khiến giới học giả phương Tây giảm thiểu vai trò của Bắc Kinh trong mâu thuẫn Đông Dương.[4] Không có một nghiên cứu đầy đủ nào về quan hệ giữa Trung Quốc với VNDCCH trong giai đoạn 1950-1975. Cuốn sách này cố gắng bù đắp sự thiếu hụt ấy bằng cách trích dẫn những tài liệu mới có từ Trung Quốc để trình bày một cách đầy đủ quá trình chuyển hoá trong mối quan hệ Trung Quốc-VNDCCH giữa hai cuộc chiến tranh Đông Dương, trong đó chú trọng vào những khía cạnh chiến lược, chính trị và quân sự của mối quan hệ trên.
Nghiên cứu này phân tích nguồn gốc chính sách Đông Dương của Bắc Kinh bằng cách đặt nó vào bối cảnh lịch sử, địa phương và quốc tế, nơi nó được thảo ra.
Nghiên cứu này cũng điều tra các nguyên nhân dẫn đến sự thăng trầm trong quan hệ Trung Quốc-Việt Nam. Đặc biệt là nó trả lời một số câu hỏi quan trọng trong việc Trung Quốc dính líu đến Đông Dương. Một số vấn đề này liên quan đến bản chất những mục tiêu của Bắc Kinh đối với Việt Nam và quá trình thực hiện các chính sách của họ.
Tại sao Mao lại quyết định công nhận nước VNDCCH và cung cấp cố vấn quân sự và viện trợ cho Việt Minh ngay sau khi giành được quyền lực ở Trung Quốc 1949?
Các cố vấn Trung Quốc đóng vai trò gì trong việc Hồ Chí Minh đánh thắng người Pháp?
Tại sao Bắc Kinh lại tham gia vào Hội nghị Geneva năm 1954 và cổ vũ cho việc chia cắt Việt Nam?
Trung Quốc đã đóng vai trò gì trong nỗ lực khôi phục miền bắc của VNDCCH sau 1954?
Trung Quốc đã phản ứng ra sao với quyết định của Hà Nội trong việc vực dậy cuộc chiến tranh cách mạng tại miền nam vào năm 1959?
Mao đã phản ứng ra sao khi Washington leo thang chiến tranh tại Việt Nam vào giữa thập niên 1960? Và mong muốn của Mao trong việc tái tổ chức đất nước và xã hội Trung Quốc đã ảnh hưởng đến các quyết định về Việt Nam của ông ra sao?
Bản đồ Đông Dương. Nguồn: Jacques Dalloz, Chiến tranh Đông Dương 1945-54 (Dublin: Gill & Macmillan, 1987)
Những câu hỏi sâu hơn nổi lên từ những tương tác giữa Trung Quốc với các đồng minh Sô Viết và Việt Nam. Liệu đã có sự phân chia nhiệm vụ giữa Mao và Stalin trong những năm đầu Trung Quốc can dự vào Việt Nam? Mâu thuẫn Trung-Sô đã ảnh hưởng đến chính sách của Bắc Kinh và quan hệ của nó với Hà Nội như thế nào? Trung Quốc và VNDCCH đã có những dị biệt gì trong việc phát động chiến tranh và theo đuổi hoà bình? Việc Trung Quốc chuyển hướng chiến lược đầu thập niên 1970 đã ảnh hưởng đến quan hệ với VNDCCH ra sao? Và những dị biệt văn hoá, truyền thống nghi kỵ trong lịch sử và tranh chấp khu vực đã ảnh hưởng thế nào đến mối hợp tác Trung-Việt?
Cả hai nước Lào và Cambodia tồn tại trong dưới cái bóng của các cuộc chiến tại Việt Nam, và tranh chấp tại Việt Nam thường lan sang hai quốc gia này. Nghiên cứu này cũng đề cập đến phản ứng của Bắc Kinh đối với những tiến triển tại Lào và Cambodia, đặc biệt là khi chúng có liên quan đến những sự kiện tại Việt Nam. Nó đặt phản ứng của Bắc Kinh vào bối cảnh của chính sách ngoại giao tổng thể cũng như những quan tâm đặc biệt riêng đối với Việt Nam.
Nhìn rộng hơn, chúng ta rút ra được điều gì từ chính sách ngoại giao của Mao qua việc phân tích cụ thể thái độ và hành động của Trung Quốc đối với Việt Nam? Xa hơn, chúng ta rút ra được kết luận gì về việc xây dựng và quản lý đồng minh của phe Cộng sản trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh qua việc điều tra chi tiết quá trình thăng trầm của mối quan hệ Bắc Kinh-Hà Nội?
Các chương kế tiếp sẽ nhận diện những động cơ đầy phức tạp phía sau chính sách Đông Dương của Bắc Kinh. Việc cân nhắc những thực thế địa chính trị là một yếu tố trọng tâm trong tính toán của Mao.
Trong suốt thập niên 1950 và hầu hết thập niên 1960, Mao đã xem Hoa Kỳ là mối đe doạ chủ yếu đối với nền an ninh và cách mạng Trung Quốc. Vì thế việc hậu thuẫn Hồ chí Minh và Pathet Lào giúp Mao thoả mãn mục đích làm suy yếu ảnh hưởng của Mỹ tại Đông nam Á và đẩy lùi nỗ lực kềm chế Trung Quốc của Washington.
Vào cuối thập niên 1960 đầu 1970, khi Mao nhận thức mối đe doạ lớn hơn từ Liên Sô và đe doạ nhỏ hơn từ Hoa Kỳ tại Việt Nam, ông bắt đầu sửa đổi lại chính sách của mình và khuyến khích Bắc Việt thoả thuận một giải pháp hoà bình.
Tinh thần trách nhiệm quốc tế và nghĩa vụ phải giúp đỡ một đảng Cộng sản anh em cũng như việc đẩy mạnh cuộc cách mạng chống đế quốc tại châu Á là một yếu tố quan trọng, thường mang tính quyết định trong chính sách của Mao về Việt Nam.
Những hành động của Bắc Kinh về Đông Dương thường được thúc đẩy bởi viễn kiến của Mao về vị trí của Trung Quốc trên thế giới. Khi cống hiến cả đời cho cách mạng, Mao nhắm vào việc thay đổi không chỉ nước Trung Quốc cũ mà cả trật tự thế giới cũ. Thể chế thực dân Pháp tại Đông Dương bao gồm thành phần của một trật tự thế giới bất công và sai trái mà Mao mong muốn dẹp bỏ. Trong suy nghĩ của Mao, nếu không có một thay đổi chống lại hệ thống quốc tế hiện thời, chiến thắng vừa có được của Cộng sản tại Trung Quốc sẽ không được bảo đảm, củng cố và chính danh.
Trong khi trật tự quốc tế cũ đã khiến Trung Quốc phải chịu đau khổ và nhục nhã, thì việc thành lập một trật tự mới sẽ đóng góp cho sự tái sinh và thịnh vượng của Trung Quốc. Mao đặt nền an ninh và thịnh vượng trong nước ngang hàng với việc phát triển phong trào phản đế và các cuộc cách mạng vô sản trên thế giới. Một thế giới gồm các quốc gia Cộng sản cùng chí hướng sẽ là một bảo đảm tốt nhất cho chính quyền của Mao tại Trung Quốc. Mao xen lẫn các quan tâm về vấn đề an ninh với ý thức hệ trong suy nghĩ của mình. Mao và các đồng sự xem cuộc cách mạng của mình tương tự với các phong trào giải phóng dân tộc khác tại các quốc gia đang phát triển và cho rằng khuôn mẫu Trung Quốc thì quan trọng đối với các phong trào ấy. Xa hơn, Mao can thiệp vào Đông Dương để tự tạo dựng hình ảnh Trung Quốc trên thế giới.
Tuy nhiên Mao không theo đuổi những mục tiêu cách mạng của mình tại Đông nam Á với cùng cường độ trong khoảng thời gian được đề cập trong cuốn sách này. Mặc dù đồng cảm với phong trào chống đế quốc thực dân trên thế giới, Mao cũng không muốn gây chiến với Hoa Kỳ. Vị lãnh tụ Trung Quốc này là một người thực tế, có đủ khả năng để chỉnh sửa chính sách khi gặp phải những khó khăn kinh tế trong nước hoặc những áp lực từ nước ngoài. Ông có khả năng vượt qua những thoái bộ chiến thuật trong nhiều lần nhưng luôn giữ vững lập trường của mình. Ví dụ như từ năm 1954 đến 1960, ông giảm bớt sự ủng hộ của Bắc Kinh đối với phong trào phản kháng tại Đông Dương để Trung Quốc có thể tập trung phát triển kinh tế trong nước. Mao không ngần ngại đề xuất chiến thuật ôn hoà hoặc nhượng bộ nếu thấy thế lực phản động đang quá mạnh để phong trào cách mạng có thế tiếp tục đấu tranh. Đấy là lý do tại sao ông đã chấp nhận một chia rẽ hoà bình tại Việt nam tại Hội nghị Geneva năm 1954 và can ngăn nỗ lực thống nhất đất nước của Hồ Chí Minh lúc ấy.
E sợ việc Mỹ can thiệp vào Việt Nam nếu chiến tranh tiếp diễn, Mao không muốn Trung Quốc dính líu đến một cuộc chiến tương tự như tại Triều Tiên, vốn sẽ làm Trung Quốc trệch hướng quá trình tái xây dựng rất cần thiết trong nước. Nỗi lo trước sự can thiệp của Mỹ cũng giải thích được quyết định của Mao trong việc đưa Lào trở lại tình trạng trung lập trong Hội nghị Geneva 1961-62.
Mao ủng hộ hình thức trung lập của Lào lúc ấy không phải vì ông muốn tạo ra tình trạng trung lập vĩnh viễn ở nước này, như Liên Sô mong muốn, mà bởi vì ông muốn tạo thêm thời gian để Pathet Lào củng cố và phát triển lực lượng, tiến đến giành lấy quyền lực.
Trong tính toán của Mao, nhượng bộ và ôn hoà không có nghĩa là từ bỏ; cách mạng cần phải qua từng giai đoạn. Mao hiểu rõ câu châm ngôn của Lenin “một bước lùi hai bước tiến” khi tiến hành cách mạng. Và từ kinh nghiệm của chính mình, ông kết luận rằng việc chuẩn bị cho chuyển biến cách mạng là một cuộc đua đường dài chứ không phải là cự ly ngắn.
Tính cách cá nhân là yếu tố quan trọng thứ ba trong quá trình hình thành thái độ của Bắc Kinh đối với cách mạng Việt Nam. Khi cân nhắc viện trợ cho Việt Minh, giới lãnh đạo ĐCSTQ không thể bỏ qua mối quan hệ cá nhân mật thiết và tình đoàn kết cách mạng mà họ và Hồ Chí Minh đã có được trong những năm cùng nhau chiến đấu trước đây.
Có cùng những giá trị và niềm tin giống nhau, họ đã trải qua những khó khăn trở ngại tương tự nhau. Hồ đã làm bạn với những đảng viên ĐCSTQ kỳ cựu như Chu Ân Lai, Lưu Thiếu Kỳ, Hoành Nhược Phi, Bành Phái, và Lý Phú Xuân từ những năm 1920, khi ông hoạt động trong Đảng Cộng sản Pháp và sau đó đóng vai đại diện của Đệ Tam Quốc tế hỗ trợ phong trào công nhân và nông dân tại Quảng Đông.
Trong thời kỳ nội chiến ở Trung Quốc vào những năm cuối 1940, chính quyền của Hồ đã cung cấp nơi trú ẩn cho quân đội ĐCSTQ từ miền nam Trung Quốc khi họ rút quân sang Việt Nam để tránh quân đội Quốc Dân Đảng tấn công. Qua quyết định giúp đỡ Việt Minh vào năm 1950, Mao nhấn mạnh tầm quan trọng của việc trao đổi tình hữu nghị giữa hai bên.
[Mao giúp Hồ vũ khí và quân viện năm 1950 để đổi lấy Hoàng Sa và Trường Sa. Sau khi giúp ông Hồ chiếm lấy 1/2 nước VN qua Hiệp định Geneve 20-7-1954, Mao lấy công lần thứ nhất bằng cách chiếm vài đảo trong quần đảo Hoàng Sa 1956. Sau khi biết Mỹ sẽ rút khỏi Nam VN 27-1-1973, biết trước Miền Nam sẽ rơi vào tay cộng sản, Mao đã đánh chiếm Hoàng Sa 19-1-1974. Đây là lần lấy công lần thứ hai, chiếu theo mật ước trao đổi với ông Hồ hồi 1950- Trần Hoàng]
Cuối cùng, chủ ý sử dụng cuộc đấu tranh quốc tế để phát triển lịch trình chính trị trong nước thường được đặt ở vị trí quan trọng trong các cân nhắc của Mao về Việt Nam. Việc này thể hiện rõ rệt vào năm 1962 khi Mao chỉ trích những đề xướng được xem là xét lại trong chính sách đối ngoại từ nội bộ đảng và nhấn mạnh lần nữa sự cần thiết phải chống lại chủ nghĩa đế quốc và ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc, bao gồm cuộc đấu tranh tại Việt Nam.
Sự tái nhấn mạnh việc ủng hộ sự nghiệp phản đế trên thế giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng đã tạo cho Mao một công cụ hữu hiệu để vận động hậu thuẫn từ trong nước cho quá trình “diễn tiến cách mạng” của ông, và để dẹp bỏ những chướng ngại bên trong giới lãnh đạo đảng, vốn đang bị chia rẽ bởi những thảm hoạ của chương trình Bước Đại Nhảy Vọt.
Tương tự, giữa những năm 1965 và 1966 Mao đã dùng nguyên cớ cần thiết phải ủng hộ cuộc chiến tranh của Hà Nội chống lại Hoa Kỳ để phát động một chiến dịch chống đế quốc trong nước, để phục hồi tinh thần cách mạng cấp tiến và để vận động quần chúng đấu tranh chống lại những lãnh đạo “xét lại” trong đảng, những người đang muốn đi theo con đường của Liên Sô nhằm phục hồi chủ nghĩa tư bản tại Trung Quốc. Nói chung, chính sách Đông Dương của Bắc Kinh là kết quả của một tổng thể bao gồm thực tế địa chính trị, niềm tin ý thức hệ, tính cách cá nhân, và các hoàn cảnh chính trị.
Cuốn sách này nhấn mạnh vai trò của khía cạnh con người trong việc làm nên lịch sử. Trước hết là Mao đầy quyền lực với những ý tưởng và tầm nhìn kiến tạo cơ cấu chung cho chính sách về Việt Nam của Trung Quốc.
Ông là người quyết định việc giúp đỡ Hồ Chí Minh, thương thảo với các cường quốc phương Tây, đối đầu với áp lực từ Mỹ, bác bỏ những đề nghị của Liên Sô, hoặc tăng cường quan hệ với Washington trong những thời điểm quan trọng.
Kế đến là những đồng sự thân tín của Mao và những lãnh đạo thứ nhì trong đảng, bao gồm Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ, Thủ tướng Chu Ân Lai, tổng bí thư đảng Đặng Tiểu Bình, Bộ trưởng Ngoại giao Trần Nghị, Đại sứ La Quí Ba, các tướng Trần Canh và Vi Quốc Thanh, những nhân vật đã trung thành thực thi những quyết định ngoại giao và quân sự của Mao đối với Việt Nam.
Những chương kế tiếp sẽ liệt kê và đánh giá cụ thể một Mao Trạch Đông đầy lôi cuốn như là một nhà cách mạng nhìn xa trông rộng, một Lưu Thiếu Kỳ cẩn trọng như một nhà tổ chức kỹ lưỡng việc tiếp tế cho Việt Minh, một Chu Ân Lai lão luyện trong vai trò của nhà ngoại giao thông minh tại các hội nghị quốc tế, một Đặng Tiểu Bình cứng rắn khi thương lượng với Bắc Việt, một Trần Nghị thẳng thắn là tiếng nói của Mao trong các vấn đề quốc tế, và Trần Canh cùng Vi Quốc Thanh dày dạn trận mạc trong vai trò cố vấn quân sự trên chiến trường Việt Nam. Họ đã đạt được chiến thắng nhưng cũng mắc phải sai lầm. Tiếng nói của họ làm nên chính sách của Trung Quốc và ứng xử của họ để lại dấu ấn sâu đậm trong mối quan hệ Trung-Việt.
Quan hệ Bắc Kinh-Hà Nội bao gồm cả đồng thuận lẫn mâu thuẫn, hợp tác và đối đầu. Nghiên cứu này sẽ tìm hiểu bản chất và các động lực của mối quan hệ này và đặt nó vào trong bối cảnh lịch sử phức tạp của chính nó.
Trong suốt lịch sử của mình, người Việt có một thái độ yêu/ghét đối với Trung Quốc. Một mặt, họ có truyền thống hướng về Trung Quốc để tìm kiếm khuôn mẫu và nguồn cảm hứng. Các vua chúa Việt Nam đã bắt chước và vận dụng những phương pháp và tổ chức của Trung Quốc để biến mình thành một lực lượng chính danh. Bày tỏ lòng kính nể đối với triều đình bề trên Trung Quốc là con đường duy nhất để tránh chiến tranh của người Việt, và chấp nhận những định chế văn hoá của Trung Quốc đã trở thành thói quen của giới cầm quyền Việt Nam. Mặt khác, người Việt luôn mong muốn gìn giữ độc lập cũng như truyền thống văn hoá của mình.
Trong những thập niên 1950 và 1960, Cộng sản Việt Nam phải đối diện với những kẻ thù hùng mạnh là người Pháp và người Mỹ khi tìm cách thống nhất đất nước. Hồ Chí Minh đã tích cực tìm kiếm tham vấn và vũ khí từ Trung Quốc. Nhưng thái độ nghi ngờ vẫn không hề biết mất. Ví dụ Trung Quốc nghi ngờ Hà Nội muốn sát nhập Lào and Cambodia vào với mình thành một “Liên bang Đông Dương” trong khi Bắc Việt cũng dè chừng mối “quan hệ đặc biệt” với Lào khi Trung Quốc tăng cường viện trợ cho Pathet Lào.
Quan hệ CHNDTQ-VNDCCH bao gồm việc hội nhập và chia sẻ quyền lợi. Hai quốc gia có cùng một triển vọng ý thức hệ và một quan tâm chung về sự can thiệp của người Mỹ vào Đông Dương, nhưng giới lãnh đạo Hà nội muốn tránh xa mối nguy hiểm của việc phải vướng vào mối quan hệ phụ thuộc với Trung Quốc. Một khi giới lãnh đạo Hà Nội và Bắc Kinh vẫn còn có các mục tiêu chung là chấm dứt sự hiện diện của Hoa Kỳ trong khu vực, những quyền lợi riêng rẻ trên sẽ nhượng bộ cho các điểm thoả thuận của hai bên.
Nhưng vào năm 1968 mối quan hệ Trung-Việt đã chuyển nhanh sang chiều hướng xấu khi Washington vừa đưa ra một bước thăm dò trong việc nới lỏng cam kết với Nam Việt. Trong tình hình mới, quyền lợi chiến lược của Bắc kinh bắt đầu có sự khác biệt cơ bản so với Hà Nội. Trong khi lúc này Trung Quốc xem Hoa Kỳ như là một tiềm năng đối trọng để chống lại Liên Sô, những đồng chí Việt Nam vẫn tiếp tục xem Washington là đối thủ nguy hiểm nhất.
Sau khi quân đội Hoa Kỳ rút quân khỏi Việt Nam (1973) và đất nước được thống nhất, những tranh chấp song phương giữa Hà Nội và Bắc Kinh về Cambodia, về bất đồng lãnh thổ trên biển Đông, và việc đối xử với người gốc Trung Quốc tại Việt Nam bắt đầu gia tăng, dẫn đến cuộc chiến tranh biên giới vào năm 1979.
Nghiên cứu này lần đầu tiên vận dụng những nguồn tài liệu do Trung Quốc công bố trong vài năm gần đây. Những tài liệu mới này được xếp vào bốn loại: nguồn hồ sơ lưu trữ, các tuyển tập tài liệu đã được xuất bản, hồi ký và nhật ký, và các tài liệu gián tiếp dựa trên các nguồn lưu trữ.
Nguồn Hồ sơ Lưu trữ
Nguồn Hồ sơ Lưu trữ
Trong khi các nhà nghiên cứu không được truy cập những tài liệu lưu trữ quan trọng như Văn khố Trung ương ĐCSTQ và Văn khố Bộ Ngoại giao tại Bắc Kinh, các văn khố địa phương của đảng tại các tỉnh thì ít nghiêm ngặt hơn và hợp tác hơn với các học giả.
Trong thời gian 1995 và 1996, tôi đã có hai chuyến đi nghiên cứu đến Văn khố Chính quyền Nhân dân tỉnh Giang Tô. Kho tài liệu này bao gồm các chỉ thị do Uỷ ban Trung ương ĐCSTQ tại Bắc Kinh gửi cho các lãnh đạo tỉnh giải thích vai trò của Trung Quốc trong hàng loạt những vấn đề quốc tế bao gồm Đông Dương.
Từ năm 1958 đến 1966, Văn phòng Đối ngoại của Uỷ ban Nhà nước triệu tập các cuộc họp hàng năm về công tác đối ngoại tại Bắc Kinh, trong đó các cán bộ từ trung ương đảng và các cơ quan chính quyền như Ban Liên lạc Quốc tế ĐCSTQ, Bộ Ngoại giao, và Uỷ ban người Hoa đang sống ở Nước Ngoài báo cáo và giải thích cho các cán bộ chuyên về ngoại giao cấp tỉnh những diễn tiến mới của quan hệ ngoại giao Trung Quốc. Nhiều bài phát biểu và tài liệu nội bộ từ những hội nghị này được lưu giữ tại Văn khố tỉnh Giang Tây. Những tài liệu này trình bày quan điểm và phản ứng của lãnh đạo Trung Quốc đối với những diễn biến trên thế giới nói chung và Đông Dương nói riêng chính xác hơn so với các tường thuật từ báo chí Trung Quốc thời kỳ ấy.
Các Tuyển Tập Tài Liệu Đã Xuất Bản
Trong những năm gần đây Bắc Kinh đã xuất bản nhiều tuyển tập gồm các bản thảo, bài viết, trao đổi và phát biểu của các lãnhđạo như Mao, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai. Những bộ sách này bao gồm vô số những bức điện tín từ các lãnh đạo trên gửi đến các cố vấn Trung Quốc tại VNDCCH cũng như vô số những ghi chép từ các trao đổi giữa họ và đối tác Việt Nam.
Những bộ sách quan trọng nhất cho cuộc nghiên cứu này gồm Kiến quốc Dĩ lai Mao Trạch Đông Văn cảo (Bản thảo của Mao Trạch Đông từ khi lập nước cho đến nay) gồm 18 bộ (Bắc Kinh XB 1987-98), Mao Trạch Đông Quân sự Văn tập (Tuyển tập các bài viết quân sự của Mao Trạch Đông) 6 bộ (Bắc Kinh XB 1993), Mao Trạch Đông Ngoại giao Văn tuyển (Tuyển tập các bài viết ngoại giao của Mao Trạch Đông) (Bắc Kinh XB 1994), Chu Ân Lai Niên Phả, 1949-1976 (Biên niên ký của Chu Ân Lai) 3 bộ (Bắc Kinh XB 1997), Chu Ân Lai Ngoại giao Văn tuyển (Tuyển tập các bài viết ngoại giao của Chu Ân Lai) (Bắc Kinh XB 1990), Chu Ân Lai Ngoại giao Hoạt động Đại Sự ký, 1949-1975 (Ký sự những hoạt động ngoại giao của Chu Ân Lai) (Bắc Kinh XB 1993), Lưu Thiếu Kỳ Niên Phả (Biên niên ký của Lưu Thiếu Kỳ), 2 bộ (Bắc Kinh XB 1996).
Hồi Ký Và Nhật Ký
Nhiều quan chức đảng, chỉ huy quân sự, nhà ngoại giao, thư ký và thông dịch viên về hưu đã xất bản những hồi ký và nhật ký cá nhân của mình trong thập niên vừa qua. Trong vài trường hợp, các tác giả nhờ vào những phụ tá trẻ giúp họ đối chứng tài liệu trong các văn khố. Những nhật ký và hồi ký này thường cho thấy những động cơ và tính toán ngầm đằng sau những trường hợp đơn thuần về chính sách.
Không những chúng cung cấp những bằng chứng mới về những lời phát biểu của Mao vốn thường không tìm thấy ở nơi khác, mà còn là một cửa sổ quan trọng cho thấy những gì ông đã đọc. Từ đó ta có thể tự do tìm hiểu mối tương giao trong các hoạt động của Mao với những đồng sự cao cấp và thư ký của mình. Từ những câu chuyện này, ta có thể nhận hiểu được quá trình thảo chính sách cũng như quan điểm của Mao. Những nhật ký và hồ ký cá nhân có ích nhất cho cuộc nghiên cứu này bao gồm Bạc Nhất Ba, Trần Canh, Hu Zhengqing, Lý Việt Nhiên, La Quí Ba, Shi Zhe, Tong Xiaopeng, Vương Bỉnh Nam, Ngũ Tu Quyền, Hùng Hướng Huy, Zeng Sheng, và Zhang Dequn[5].
Những Bài Viết Gián Tiếp
Kể từ giữa thập niên 1980, một số lớn các tài liệu gián tiếp dựa trên các nguồn lưu trữ đã xuất hiện tại Trung Quốc. Chúng bao gồm lịch sử tổng quát về đảng, quân đội, và ngoại giao, các tiểu sử, chuyên khảo và bài viết. Tác giả của chúng đa số từ Bắc Kinh, hoặc là một tập thể các tác giả do đảng tập hợp hoặc các học giả làm việc riêng rẻ được phép truy cập các kho lưu trữ. Những tác phẩm này thường trích dẫn các tài liệu lưu trữ nổi bật. Nhưng vì những cấm đoán của đảng, họ chỉ đề cập đến các nguồn tài liệu này mà không nói rõ nơi lưu trữ chúng.
Khi tìm hiểu những nguồn tài liệu mới đã nói ở trên, tôi đã tránh không để lòng phấn chấn về việc khám phá ra chúng làm ảnh hưởng đến thái độ nghiêm khắc cũng như tính nhạy cảm của mình đối với nội dung vốn vô cùng quan trọng trong việc xem xét bất kỳ bộ phận nào của các thông tin lịch sử.
Khi sử dụng các tuyển tập tài liệu đã xuất bản, tôi hoàn toàn biết rõ rằng chúng đã được giới biên tập viên của đảng lựa chọn, thường là với mục đích chính trị, và chúng có thể không phải là những tài liệu hoàn hảo. Tôi đã cố gắng làm việc một cách cẩn trọng với những bộ văn tuyển này, loại bỏ một lượng lớn những cường điệu và bí ẩn. Tôi cũng đã đối xử với các hồi ký với sự cẩn trọng tương tự, hoàn toàn nhận thức được rằng ký ức của con người thì rời rạc và có thể không đúng sự thật và hồi tưởng của các cá nhân thường là để tự đề cao mình. Mỗi khi có thể, tôi đã đối chiếu và xác nhận các câu chuyện, chỉ ra những dị biệt và mâu thuẫn.
Khi làm việc với các tài liệu gián tiếp dựa trên văn bản lưu trữ, tôi nhận thức rõ rằng mình phải dựa vào sự xét đoán của các tác giả cũng như sự thiếu sót trong các nguồn tài liệu mà các tác giả ấy được phép truy cập.
https://hoangtran204.wordpress.com/2014/01/03/trung-quoc-da-gui-320-nghin-quan-hau-thuan-den-bac-viet-trong-giai-doan-1965-68-trung-quoc-va-nhung-cuoc-chien-tranh-viet-nam-1950-1975/?fbclid=IwAR1X3urU6mGMbtjveddLbk7JOKjivOtmEnOc8Xx9mWjl4c4GyHsmdstTsdk
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét