Tìm kiếm Blog này

Thứ Tư, 11 tháng 11, 2015

Aung San Suu Kyi - chân dung biểu tượng dân chủ toàn cầu

"Với tư cách là con của cha tôi, tôi không thể làm ngơ trước những gì đang diễn ra", bà Aung San Suu Kyi nói về quyết định tham gia vào chính trị, sự nghiệp đã khiến bà phải xa cách gia đình trong rất nhiều năm.
Aung San Suu Kyi sinh ngày 19/6/1945 tại Rangoon (nay là Yangon). Bà là con gái của anh hùng Myanmar, tướng Aung San, người đã thành lập quân đội Myanmar hiện đại và đã đàm phán để Myanmar được độc lập khỏi Anh năm 1947. Ông bị ám sát trong giai đoạn chuyển tiếp vào tháng 7/1947, chỉ 6 tháng trước độc lập, khi bà Suu Kyi mới hai tuổi.
Lãnh đạo đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD), bà Aung San Suu Kyi (Ảnh: AP)
Lãnh đạo đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD), bà Aung San Suu Kyi (Ảnh: AP).
Năm 1960, bà đến Ấn Độ cùng với mẹ mình là Khin Kyi, người được bổ nhiệm làm đại sứ Myanmar ở Delhi. 4 năm sau, bà theo học Đại học Oxford tại Anh, nơi bà nghiên cứu triết học, chính trị và kinh tế. Ở đó, bà gặp người chồng tương lai của mình, học giả Michael Aris.
"Tôi muốn đảm bảo ông ấy biết ngay từ đầu rằng đất nước có ý nghĩa rất nhiều đối với tôi, và nếu tôi cần quay về Myanmar, thì ông ấy đừng cố gắng xen giữa đất nước của tôi và tôi", Suu Kyi kể về câu chuyện nói với chồng một ngày trước đám cưới của họ, theo một cuộc phỏng vấn năm 2012 của bà với BBC.
bà Aung San Suu Kyi Lãnh đạo đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD:)Myanmar

Sau một thời gian sống và làm việc tại Nhật Bản và Bhutan, bà định cư ở Anh để nuôi hai con, Alexander và Kim, nhưng Myanmar luôn nằm trong suy nghĩ của bà.
Khi bà về Yangon năm 1988 để chăm sóc người mẹ bị bệnh nặng, Myanmar đang trong cơn biến động chính trị lớn. Hàng nghìn sinh viên, nhân viên văn phòng và nhà sư đã xuống đường đòi cải cách dân chủ.
"Với tư cách là con gái của cha tôi, tôi không thể làm ngơ trước những gì đang diễn ra", bà nói trong một bài phát biểu tại Yangon ngày 26/8/1988. Bà đã dẫn đầu phong trào chống lại lãnh đạo Myanmar sau đó là tướng Ne Win. Bà được người dân Myanmar gọi là mẹ Suu hay là cô Suu.
Tuy nhiên, các cuộc biểu tình bị giải tán bởi quân đội - những người nắm quyền lực sau cuộc đảo chính ngày 18/9/1988. Bà Suu Kyi bị quản thúc tại nhà vào năm sau.
Tháng 5/1990, chính quyền quân sự tổ chức cuộc bầu cử quốc gia, đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD) của bà Aung San Suu Kyi đã giành chiến thắng, tuy nhiên, chính quyền từ chối bàn giao quyền kiểm soát.
Bà được trao giải Nobel Hòa bình năm 1991, con trai đã thay mặt bà đến nhận. Chủ tịch ủy ban trao giải gọi bà là "một ví dụ nổi bật về sức mạnh của những người không có quyền hành".
Bà Suu Kyi bị quản thúc ở Yangon trong 6 năm, cho đến khi được thả vào tháng 7/1995. Bà một lần nữa bị quản thúc tại nhà vào tháng 9/2000, khi bà cố gắng đến thành phố Mandalay, bất chấp lệnh hạn chế đi lại.
Bà được thả vô điều kiện vào tháng 5/2002, nhưng chỉ hơn một năm sau đó bà phải ngồi tù, sau một cuộc đụng độ giữa những người ủng hộ bà và một đám đông do chính phủ hậu thuẫn.
Trong thời gian bị giam, bà Suu Kyi vùi mình nghiên cứu và tập luyện thể lực. Bà ngồi thiền, trau dồi kỹ năng tiếng Pháp và tiếng Nhật, và thư giãn bằng cách chơi piano. Có những lúc bà được gặp các quan chức NLD khác và một số nhà ngoại giao.
Bầu cử ở Myanmar: Đảng cầm quyền thừa nhận thất bại
 bà Aung San Suu Kyi Lãnh đạo đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD:)Myanmar

Nhưng trong những năm đầu bị giam giữ, bà thường bị cô lập. Bà không được phép gặp hai cậu con trai hoặc chồng, ông chết vì ung thư tháng 3/1999. Chính quyền quân sự cho phép bà đến Anh để thăm chồng khi ông ốm nặng, nhưng Suu Kyi cảm thấy bắt buộc phải từ chối vì sợ sẽ không được phép quay trở lại đất nước.
Giai đoạn bị quản thúc cuối cùng của bà kết thúc vào tháng 11/2010 và con trai Kim Aris được phép đến thăm bà lần đầu tiên trong một thập kỷ.
Đầu tháng 2/2011, Quốc hội Myanmar đã bầu ông Thein Sein làm tổng thống dân sự. Sau đó, bà Suu Kyi thực hiện một quyết định quan trọng khi ứng cử vào quốc hội mà trước đây bà chỉ trích là "không có thật", trong cuộc bầu cử phụ vào tháng 4/2012. Bà và đảng NLD thắng 43 trong số 45 ghế được tranh cử. Vài tuần sau, bà Suu Kyi tuyên thệ tại quốc hội và trở thành lãnh đạo của phe đối lập.
Tháng 5 năm đó, bà lần đầu tiên rời khỏi Myanmar sau 24 năm, để đến Thái Lan, và sau đó là châu Âu. BBC gọi đây là "một dấu hiệu cho thấy bà tự tin rằng các nhà lãnh đạo mới của Myanmar sẽ để bà trở về nước".
Năm đó, bà Suu Kyi nói về sự hối tiếc khi không thể dành nhiều thời gian với gia đình. "Ai cũng muốn ở bên gia đình mình. Tất nhiên, tôi có hối tiếc về điều đó. Hối tiếc về mặt cá nhân", bà nói.
"Tôi muốn nhìn thấy con trai tôi lớn lên. Nhưng tôi không có lưỡng lự gì trước thực tế rằng tôi phải lựa chọn ở lại với người dân của tôi", bà nói.
Năm nay, cuộc tổng tuyển cử đầu tiên được thực hiện ở Myanmar sau khi chính quyền dân sự thay thế chính quyền quân sự cách đây 4 năm. Đảng đối lập do bà Aung San Suu Kyi lãnh đạo đến hôm qua giành 15 trong 16 ghế đầu tiên tại quốc hội Myanmar, trong khi đảng cầm quyền thừa nhận thua về số phiếu bầu.
Ảnh của Thuần Ngô.
 bà Aung San Suu Kyi Lãnh đạo đảng Liên minh Quốc gia vì Dân chủ (NLD:)Myanmar
Kể cả khi đảng NLD giành chiến thắng trong các cuộc bỏ phiếu, bà Aung San Suu Kyi vẫn bị cấm trở thành tổng thống, do một điều khoản hiến pháp cấm bất cứ ai có vợ, chồng hay con là người nước ngoài được giữ chức vụ này. Nhưng hôm 5/11, bà khẳng định sẽ "đứng trên cả tổng thống" nếu đảng của bà giành thắng lợi.
Tuy đảng của bà nhận được nhiều sự ủng hộ, bà cũng hứng chịu một số chỉ trích. Những nhà phê bình cho rằng bà đã thất bại trong việc thiết lập quan hệ làm việc tốt với Tổng thống Thein Sein, hoặc thuyết phục quân đội thay đổi các điều trong hiến pháp. Bà còn bị cho là một cái bóng quá lớn che lấp các chính trị gia có tiềm năng, những người có thể thách thức uy quyền của bà.
Bà cũng làm phật lòng một số người ủng hộ nước ngoài vì vấn đề tôn giáo. Tuy nhiên, theo The Times, bà vẫn là người nổi tiếng nhất và được yêu mến nhất ở Myanmar. Không ai khác có thể giành chiến thắng như bà.
 Phương  Vũ

MYANMAR – LÀ NHƯỢC TIỂU NHƯNG KHÔNG LÀM CHƯ HẦU !

MYANMAR –

 LÀ NHƯỢC TIỂU NHƯNG KHÔNG LÀM CHƯ HẦU !

Ai đã mở cửa để đưa Tổng thống Mỹ Barack Obama vào Myanmar trong chuyến công du lịch sử ngày 19-11-2012? Ai mở đường đưa Myanmar đến cuộc bầu cử dân chủ tự do đầu tiên sau 25 năm vào 3 năm sau, ngày 8-11-2015? Ý chí lãnh đạo là điều không thể phủ nhận nhưng điều quan trọng nhất khiến Myanmar chọn con đường dân chủ chính là ý chí thoát Trung!
Điều gì đã khiến Myanmar thay đổi tư duy đối ngoại khi can đảm quyết định tách khỏi quỹ đạo tưởng chừng bất di dịch với Trung Quốc để ngả theo trục phương Tây? Chính là sự tái nhận thức sáng suốt về quyền lợi và chủ quyền quốc gia. Hơn nửa thế kỷ được “bảo kê” bởi Bắc Kinh, Myanmar đã ngậm đắng nuốt cay chịu nhiều thiệt thòi. Trung Quốc ngày càng gây sức ép thao túng kinh tế và vơ vét tài nguyên Myanmar, từ dầu khí, đồng, gỗ teak, đá quí đến sản vật nông nghiệp… Họ mua vô số đất đai để làm nông trại nhưng thuê mướn nhân công từ Trung Quốc. Nói cách khác, đất Myanmar dần được “chuyển quyền sở hữu” sang người Trung Quốc. Dân Trung Quốc tràn xuống cố đô Mandalay (thành phố lớn thứ hai Myanmar) nhiều đến mức cư dân địa phương có câu nói đùa rằng “Chỉ cần dân Tàu khạc nước dãi thì cũng đủ ngập để cho người Mandalay bơi rồi!”.
Trung Quốc đổ rất nhiều tiền với vô số dự án đầu tư vào Myanmar. Tháng 9-2010, Bắc Kinh tuyên bố cho vay 4,2 tỉ USD với lãi suất zero trong 30 năm để “giúp” Myanmar xây đập, đường xá, hỏa xa và phát triển công nghệ thông tin. Tuy nhiên, “chơi” với Bắc Kinh, Naypyidaw chỉ nhìn thấy thiệt. Họ thấy rõ thủ đoạn “thả con tép bắt con tôm” của Trung Quốc. Tháng 3-2010, tờ Nhân Dân nhật báo (Trung Quốc) cho biết mậu dịch song phương hai nước đạt 2,9 tỉ USD vào năm 2009, tăng 10% so với cùng kỳ năm trước và từ (gần bằng) zero vào cuối thập niên 1980. Tuy nhiên, cái gọi là “song phương” thực chất hầu như chỉ là một chiều: năm 2009, xuất khẩu Trung Quốc sang Myanmar đạt 2,3 tỉ USD nhưng xuất khẩu ở chiều ngược lại chỉ vỏn vẹn 646 triệu USD (Asia Times 19-10-2011)…
Nói thêm một chút về địa chính trị. Là nước lớn thứ hai Đông Nam Á với 1/3 (trong tổng chu vi 1.930 km) hình thành nên một bờ biển liên tục chạy dọc vịnh Bengal và biển Andaman, Myanmar đóng vai trò như một ngã tư chiến lược, về biển lẫn đất liền, tạo thành một điểm kết nối giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Nắm được Myanmar là nắm được một ưu thế địa chính trị quan trọng. Trung Quốc đã nhìn thấy tầm chiến lược địa chính trị Myanmar, nơi có biên giới tiếp giáp với họ dài đến 2.000 km, từ rất lâu. Suốt thập niên 1960 rồi 1970, Trung Quốc luôn phủ bóng lên lịch sử Myanmar.
Đầu thập niên 1991, Trung Quốc thậm chí đưa cố vấn quân sự sang nước này. Từ ảnh hưởng chính trị, họ bắt đầu tạo ảnh hưởng kinh tế. Như bài viết trên Asia Times (19-10-2011) của Bertil Lintner (nguyên phóng viên Far Eastern Economic Review, tác giả một số quyển sách về Myanmar), từ thập niên 1980, Trung Quốc đã có ý định xây con đập Myitsone. Điều này đã thể hiện trong một bài viết mang tựa “Mở rộng về phía Tây Nam – ý kiến một chuyên gia”, đăng trên tờ Beijing Review số tháng 9-1985. Bài viết này đề cập khả năng tìm một lối ra cho con đường mậu dịch đối với các tỉnh Nam Trung Quốc (Vân Nam, Tứ Xuyên) vốn bị “khóa” cô lập trong đất liền bởi yếu tố địa lý, bằng cách khai thông ngả Myanmar để ra Ấn Độ Dương. Bài viết cũng nhắc đến việc xây các tuyến hỏa xa Myitkyina và Lashio ở Đông Bắc cũng như sông Irrawaddy để làm tuyến vận chuyển cho hàng xuất khẩu Trung Quốc. Đến thập niên 1990, Myanmar đã gần như trở thành một tỉnh của Trung Quốc, khi được Bắc Kinh tập trung đầu tư với vô số dự án hạ tầng.
Mục tiêu Bắc Kinh là biến Myanmar thành một bàn đạp vệ tinh, một vùng đệm giúp hỗ trợ phát triển kinh tế cho các tỉnh Tây và Nam Trung Quốc. Nói cách khác, đầu tư hạ tầng cho Myanmar là đầu tư cho tương lai phát triển cho chính khu vực phía Nam và Tây Trung Quốc, để không chỉ có thể giúp các tỉnh này san bằng khoảng cách thu nhập với các tỉnh giàu có phía Đông của họ mà còn tạo nên ưu thế cạnh tranh kinh tế với láng giềng Ấn Độ. Đó là một phần của “chính sách hai đại dương” mà giới chính trị học thuật Trung Quốc cổ súy (phải làm chủ cả Thái Bình Dương lẫn Ấn Độ Dương). Thế là loạt dự án hạ tầng bắt đầu hình thành, từ một xa lộ dẫn đến một hải cảng mới toanh trị giá nhiều triệu đôla, phục vụ việc xuất khẩu hàng sản xuất ở các tỉnh phía Tây và Nam Trung Quốc; đến một tuyến ống dẫn hơn 1.600 km đưa dầu Trung Đông và châu Phi đến các nhà máy lọc ở Vân Nam; đến một tuyến ống dẫn nữa đưa khí đốt Myanmar đến thắp sáng cho Côn Minh và Trùng Khánh; đến hơn 20 tỉ USD đầu tư cho một tuyến hỏa xa cao tốc giúp việc đi lại xưa kia mất hàng tháng nay có thể chỉ còn không đến một ngày; rồi đến năm 2016, sẽ có một hệ thống đường sắt đi suốt từ Yangon đến Bắc Kinh hoặc thậm chí tới Delhi rồi từ đó sang châu Âu…
Quan trọng hơn cả là việc sử dụng Myanmar làm trạm trung chuyển dầu hỏa từ Trung Đông và châu Phi vào sâu trong nội địa Trung Quốc, giúp né được “cửa ải” Malacca. Do lệ thuộc tuyệt đối nguồn dầu nước ngoài với 80% dầu nhập được đưa về ngang Malacca, một trong những eo biển nhộn nhịp nhất thế giới mà nơi hẹp nhất chỉ rộng 2,7 km, Trung Quốc rất lo sợ một khi xảy ra xung đột, Malacca có thể bị đóng cửa và nguồn cung ứng dầu bị ách tắc. Cho nên, bằng mọi cách phải thiết lập được tuyến ống dẫn ngang Myanmar.
Một cách tổng quát, trước khi xảy ra cú bắn pháo hiệu của Tổng thống Thein Sein vào tháng 9-2011 (về việc tạm ngưng xây đập Myitsone), hay nói chính xác hơn là trước khi Naypyidaw thay đổi quan điểm đối ngoại, Myanmar là sân sau của Bắc Kinh, là đất nhà của hàng chục ngàn di dân Trung Quốc, là thị trường chuyên tiêu thụ hàng hóa Trung Quốc, là nơi giới doanh nghiệp Trung Quốc mặc sức tác oai tác quái. Nếu nói không quá thì sinh mạng kinh tế Myanmar gần như hoàn toàn lệ thuộc vào Trung Quốc.
Một sự nhìn nhận lại vai trò và ảnh hưởng Trung Quốc đã âm thầm diễn ra. Năm 2004, theo bài viết của Bertil Lintner trên YaleGlobal (5-11-2012), trung tá Aung Kyaw Hla – nhà nghiên cứu thuộc Học viện quốc phòng Myanmar – bắt đầu thực hiện một khảo sát chi tiết. Bản báo cáo tuyệt mật dày 346 trang này, với tựa “Một nghiên cứu về quan hệ Myanmar-Hoa Kỳ”, đã phác họa những chính sách bắt đầu được áp dụng nhằm có thể cải thiện quan hệ với Washington đồng thời giảm lệ thuộc Bắc Kinh. Nội dung báo cáo nói rằng, việc xem Trung Quốc là một đồng minh ngoại giao và nhà bảo trợ kinh tế đã tạo ra một “tình huống khẩn cấp” đe dọa sự độc lập quốc gia. Báo cáo viết rằng, chỉ bằng cách cải thiện quan hệ với Mỹ, Myanmar mới có thể tiếp cận nguồn hỗ trợ tài chính từ Ngân hàng Thế giới và Quỹ tiền tệ quốc tế, giúp đất nước lần hồi thoát khỏi “chủ nghĩa khu vực”, nơi họ phải lệ thuộc vào ý chí và quan hệ với những láng giềng trực tiếp trong đó có Trung Quốc, để “bước vào một kỷ nguyên mới của toàn cầu hóa”…
Có thể tóm gọn lý do khiến Myanmar từ bỏ “hũ mật Trung Quốc” để uống “chén đắng phương Tây” – nếu nhìn ở góc độ thường được xem là “an toàn chính trị” đối với một chế độ – qua một nhận định của Nay Zin Latt, cố vấn chính trị của Tổng thống Thein Sein: “Trước đây, muốn hay không, chúng tôi phải chấp nhận tất cả những gì mà Trung Quốc đề nghị. (Bây giờ), khi lệnh cấm vận được (phương Tây) tháo dỡ, điều đó sẽ tốt hơn cho mọi người ở Myanmar”. Nói cách khác, Myanmar hiểu rằng, chỉ với thiện chí thật sự cải tổ theo đường hướng có lợi dân tộc, họ không chỉ có thể tự cởi trói và thoát được “án” cấm vận mà nhờ đó còn hạn chế lệ thuộc Trung Quốc, về lâu dài.
Ý nghĩa lớn nhất trong câu chuyện dân chủ của Myanmar là vấn đề địa chính trị không phải là rào cản lớn nhất để lấy đó làm cái cớ biện dẫn cho sự cúi đầu làm chư hầu. Chỉ 19 năm sau khi lập quốc từ bàn tay không với một nhúm người tha phương từ khắp nơi thế giới quần tụ lại, không có gì trừ ý chí dân tộc mãnh liệt, Israel đã kiên cường chống chỏi sự vây bủa khốc liệt và chiến thắng trước những con hổ dữ Arab trong cuộc chiến 7 ngày. Và đến nay, Israel vẫn luôn bị đe dọa và vẫn tiếp tục lớn mạnh hơn trong sự đe dọa thường trực đó, bất luận yếu tố lịch sử lẫn yếu tố địa lý vô cùng phức tạp, bởi còn xen lẫn bởi yếu tố tôn giáo. Đừng lấy cái gọi là “lời nguyền địa lý” và “lời nguyền lịch sử” để tự gánh lên vai cái lối ngụy biện hàm hồ về việc “chúng ta không còn con đường nào khác là phải chấp nhận lệ thuộc Trung Quốc!”. Đó là cái não trạng mặc cảm khiếp nhược của những kẻ hèn hạ, bao biện cho tư duy chính trị của những kẻ bán nước hèn hạ bội lần. Làm thế nào có thể thoát Trung khi còn có kiểu suy nghĩ tăm tối như vậy? Làm thế nào có thể thoát Trung khi mà vẫn không chấp nhận một nền chính trị dân chủ như Myanmar hay Philippines, để người dân có thể bày tỏ ý nguyện thoát Trung và nhìn thấy được kết quả từ ý chí thoát Trung đồng nhất của dân tộc thông qua lá phiếu?
                                                                                  FB Mạnh Kim