Tìm kiếm Blog này

Thứ Tư, 27 tháng 7, 2016

Tây Tạng

Thích Trí Chơn – Phật Giáo Tây Tạng Dưới Chính Sách Cai Trị Tàn Ác Của Trung Cộng

Chúng tôi xin lược tóm trình bày, qua sự tường thuật của các báo chí Tây phương trong nhiều năm qua, để quý độc giả Phật tử xa gần biết rõ về các biến cố “Pháp nạn” xảy ra tại nước Phật giáo Tây Tạng hơn 50 năm trước dưới chế độ cai trị tàn bạo của chính quyền Trung Cộng.
 Vài nét về nền Phật giáo Tây Tạng
 Tây Tạng, từ Anh ngữ gọi là “Tibet”, tiếng Trung Hoa “Tufan”, Mông Cổ “Thubet”, Thái Lan “Thibet” và Ả Rập “Tubbat” v.v… Trong các thi phẩm cổ văn của Tây Tạng, quốc gia này thường có tên gọi “Khawachen”, có nghĩa là “Xứ Tuyết” (The Abode of Snow) hay “Sildanjong”, có nghĩa là “Vùng đất khí hậu lạnh” (The Cool Climate Land).
 Từ lâu, Tây Tạng được thế giới xem như một quốc gia xa xôi ở Trung Á, ít người lui tới vì quanh năm xứ này được bao bọc bởi các núi tuyết. Tây Tạng có diện tích rộng khoảng 471.660 dặm vuông nằm ở vị trí cao nhất (16.000 feet) phía bắc núi Hy Mã Lạp Sơn (Himalaya) mà thường Tây phương thường gọi “The Roof or Top of the World” (Mái nhà hoặc đỉnh cao của Thế giới), phía tây giáp miền bắc Ấn Độ; đông và bắc giáp Trung Quốc; nam giáp các vương quốc Nepal, Bhutan, bắc Miến Điện và đông bắc Ấn Độ. Thủ đô: Lhasa (Lạp Tát) với dân số 40.000 trên tổng số dân Tây Tạng là 6 triệu, trong đó có khoảng 18 phần trăm nhà Sư và hai phần trăm là Ni cô (theo tài liệu của Sử gia Tây Tạng T.W.D.Shakabpa). Ngoài ra, còn có khoảng 1,5 triệu dân Tây Tạng đang sống tỵ nạn tại nhiều quốc gia khắp nơi trên thế giới.
 Thời xa xưa, trước khi tiếp xúc với Phật giáo, dân chúng Tây Tạng phần đông theo đạo cổ truyền gọi là “Bon” tin vào ma quỷ, thần linh. Khi bị ma quỷ quấy phá, họ phải nhờ các thầy pháp, phù thủy cúng vái mới được yên. Sau đó, Phật giáo từ Ấn Độ bắt đầu du nhập Tây Tạng vào khoảng tiền bán thế kỷ thứ bảy dưới triều vua Songtsen Gampo (605-650). Theo truyền thuyết, người ta tin rằng nhà vua là hóa thân của đức Quan Thế Âm Bồ Tát và là vị vua ủng hộ Phật giáo đầu tiên ở Tây Tạng. Nhà vua đặt ra 16 điều răn đạo đức khuyên dân chúng thực hành theo, đã kiến lập thủ đô Lhasa và xây dựng nhiều chùa khắp nơi trong nước.
 Phật giáo Tây Tạng có rất nhiều tông phái, nhưng chỉ có bốn phái sau đây là chính yếu: 1) Nyingma (Ninh Mã), 2) Kagyu (Cát Cử), 3) Sakya (Tát Ca) và 4) Geluk (Cách Lỗ). Các học giả Tây phương thường gọi ba phái đầu là “Mũ Đỏ” (Red Hat) và phái thứ tư Geluk là “Mũ Vàng” (Yellow Hat). Học giả Tây Tạng lại thích dùng từ “Cựu phái” chỉ cho mũ đỏ và “Tân phái” cho mũ vàng. Trong bốn phái trên, phái có ảnh hưởng mạnh nhất là Geluk hay “ Đạo Đức phái” (The Virtuous Order) nhờ vào sự cải cách truyền bá và phát triển của ngài Tsong Khapa –Tông Khách Ba (1357-1419). Xuất gia lúc 7 tuổi và sau khi học xong giáo lý căn bản tại quê nhà, năm 16 tuổi Ngài được gửi lên tiếp tục học chương trình Cao học Phật giáo tại các Phật Học Viện ở miền Trung Tây Tạng. Ngài chủ trương chư Tăng tuyệt đối không được lập gia đình (khác với phái Sakya, nhà sư có thể lấy vợ). Lúc ấy, được nhiều người ủng hộ, Ngài đứng ra lập chùa Ganden (Cách Đăng), cách 40 cây số về hướng đông thủ đô Lhasa để làm cơ sở truyền bá giáo lý của phái Geluk (Cách Lỗ) hay Mũ Vàng.
 Ảnh hưởng của phái này về sau rất mạnh, không những chỉ trong đời sống tôn giáo, văn hóa, xã hội của dân chúng mà cả đến chính trị trong triều đình vua chúa Tây Tạng bấy giờ. Năm 1438, Gendun Drub là cháu và đệ tử chính của ngài Tsong Khapa (Tông Khách Ba) nhận giữ chức trụ trì chùa Ganden. Do lời tiên đoán của Lạt Ma Tsong Khapa, ngài Gendun Drub (1391-1474) được xác nhận như vị hóa thân của đức Bồ tát Quán Thế Âm và do đó trở thành đức Đạt Lai Lạt Ma đầu tiên lãnh đạo giáo phái Geluk (Cách Lỗ) kiêm giữ chức vụ nguyên thủ điều hành quốc gia. Dalai (Đạt Lai) là tiếng Mông Cổ dịch từ chữ “Gyatso” của Tây Tạng, có nghĩa là “Đại Dương” (Ocean), còn Lama (Lạt Ma) là “Trí Tuệ” (Wisdom). Vậy “Dalai Lama” có nghĩa là “Biển Trí Tuệ”.
 Theo truyền thống kế thừa của dòng phái Đạt Lai Lạt Ma thì sau khi đức Đạt Lai Lạt Ma trước viên tịch, Giáo Hội không chọn lựa bổ nhiệm một vị Lạt Ma tài đức khác lên thay thế mà hàng tăng đồ, đệ tử trong môn phái và chính quyền phải lặn lội đi tìm khắp nơi trong nước một bé trai ở một gia đình nào mà qua nhiều lần thí nghiệm biết chắc rằng em đó đúng là vị đầu thai, tái sanh của đức Đạt Lai Lạt Ma đã mất thì em sẽ được Giáo Hội rước đưa về Lhasa chăm sóc dạy dỗ cả đời lẫn đạo để sau này tấn phong em lên nhận lãnh vai trò của đức Đạt Lai Lạt Ma kế tiếp. Truyền thống lãnh đạo của các vị Đạt Lai Lạt Ma và quyền lực chính trị của giáo phái Phật giáo Geluk hay Mũ Vàng này vẫn được duy trì tồn tại hơn 500 năm qua tại xứ Tây Tạng cho đến năm 1959. Ngài Đạt Lai Lạt Ma hiện nay mà chúng ta gọi “Đức Phật sống” là vị thứ 14. Tên Ngài là Tenzin Gyatso sanh ngày 06-06-1935 tại làng Taktser, quận Dokham, miền đông bắc Tây Tạng. Năm 1940, chưa đầy năm tuổi, Ngài chính thức được chính phủ Tây Tạng suy tôn lên ngôi vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 và nắm quyền lãnh đạo quốc gia trong một buổi lễ vô cùng trang nghiêm tổ chức ở cung điện Potala tại thủ đô Lhasa.
 Trung Cộng xâm lăng đánh chiếm Tây Tạng
 Trước kia mặc dù Trung Quốc vẫn thường tuyên bố rằng Tây Tạng là một phần đất của họ, nhưng chưa thực sự xua quân đánh chiếm xứ này. Ngày 07-10-1950, quân đội Trung Cộng bắt đầu mở cuộc tấn công sáu mặt vào lãnh thổ Tây Tạng, lúc ấy đức Đạt Lai Lạt Ma mới có 15 tuổi. Ngày 07-11-1950, Ngài gửi thư nhờ Liên Hiệp Quốc can thiệp giúp đỡ, nhưng vì Tây Tạng bấy giờ không có chân trong tổ chức này nên lời yêu cầu của Ngài không được đáp ứng. Cùng lúc, đức Đạt Lai Lạt Ma cũng gửi công hàm cho chính quyền Trung Quốc nhắc lại tình hữu nghị xưa nay giữa hai nước và yêu cầu họ rút quân khỏi Tây Tạng cũng như giao trả các tù binh Tây Tạng bị bắt. Nhưng chính phủ Trung Quốc làm ngơ. Sau đó, vì nhận thấy không đủ sức đương đầu với Trung Cộng về mặt quân sự, nên chính phủ Tây Tạng buộc lòng phải gửi phái đoàn sang Bắc Kinh nghị hòa ký hiệp ước gồm 17 điều vào ngày 23-05-1951.
Tuy nhiên, nhà cầm quyền Trung Quốc vẫn không giữ đúng hoàn toàn tất cả những điều cam kết đã ký. Hè năm 1951, khoảng 6.000 quân Trung Cộng tiến vào chiếm thủ đô Lhasa. Cuối năm 1955, tình hình lại càng tồi tệ hơn. Hè năm 1956, đức Đạt Lai Lạt Ma được Hội Ma Ha Bồ Đề (Maha Bodhi Society) mời qua dự lễ Phật Đản năm 2500 tại Ấn Độ. Trong lúc Ngài vắng mặt, nhiều cuộc xung đột đã xảy ra giữa quân đội Trung Quốc và Tây Tạng. Cuối năm 1956, dân chúng Tây Tạng bắt đầu ồ ạt bỏ nước ra đi tỵ nạn. Đầu năm 1957, quân đội giải phóng Tây Tạng chiến đấu anh dũng đã lấy lại được một số cứ điểm do Trung Cộng chiếm đóng trước kia, mặc dù lúc ấy quân Trung Cộng có đến 40.000 so với Tây Tạng vào khoảng 6.000.
 Sau khi từ Ấn Độ về đến Lhasa, đức Đạt Lai Lạt Ma đau buồn nghe tin quân đội Trung Cộng đã pháo kích, ném bom, phá hủy các làng mạc, chùa chiền khắp nơi. Nhiều dân lành Tây Tạng bị tra tấn, sát hại. Những nông dân nào tỏ ý chống đối chính quyền Trung Quốc, con gái của họ từ 13 đến 20 tuổi bị cưỡng bức lõa thể đi diễn hành ngoài đường phố, trong khi lính Trung Cộng đứng nhìn, và có những hành động đồi bại vừa la hò thích thú. Nhiều Ni cô Tây Tạng bị lính Trung Cộng hãm hiếp tập thể hoặc có trường hợp bộ đội Trung Quốc dùng súng, lưỡi lê cưỡng bức các nhà Sư và Ni cô lấy nhau trước mặt họ. Nạn nhân đôi khi bị tra tấn bằng cách lột da sống. Chồng bị tàn sát trước mặt vợ; các phụ nữ và con gái bị cưỡng hiếp và bắn chết trước sự chứng kiến của thân nhân. Trẻ con Tây Tạng bị bắt buộc cầm súng bắn giết cha mẹ v.v… Theo bản báo cáo của một Ủy Ban Điều Tra tại Quốc Hội Hoa Kỳ về các nạn nhân bị sát hại dưới chế độ Cộng Sản tại Trung Quốc (gồm cả Tây Tạng) trong thời gian những năm 1949-1971 là vào khoảng từ 32 đến 63 triệu người.
 Đức Đạt Lai Lạt Ma bỏ nước ra đi
 Cuối năm 1958, dân chúng Tây Tạng nổi dậy chống Trung Quốc khắp nơi. Ngày 10-03-1959, ngay tại thủ đô Lhasa, quần chúng cũng vùng lên chống đối Trung Cộng. Giữa lúc tình hình khẩn trương, ngày 16-03-1959 đức Đạt Lai Lạt Ma được tin quân đội Trung Cộng đang chuẩn bị pháo kích cung điện Potala ở Lhasa, Ngài khẩn cấp cho họp Hội Đồng Nội Các. Ngài không sợ chết, nhưng nhận thức rằng chính phủ và nhân dân Tây Tạng muốn Ngài phải sống, dù bất cứ ở đâu, để tiếp tục lãnh đạo cuộc tranh đấu giải phóng đất nước. Cuối cùng, vì tiền đồ của dân tộc và đạo pháp, Ngài đã quyết định cùng với một số thân quyến và các vị bộ trưởng trong chính phủ rời khỏi Tây Tạng ngay trong đêm ấy.
Sau bao ngày dùng ngựa và đi bộ cực nhọc, vượt suối băng đèo, đức Đạt Lai Lạt Ma đã an toàn tới được thị trấn Mussoorie dưới chân núi Hy Mã Lạp Sơn, phía bắc New Delhi, thủ đô của Ấn Độ. Cố thủ tướng Ấn Độ, ông Nehru (1889-1964) lúc ấy hay tin liền đến thăm Ngài. Hiện nay, đức Đạt Lai Lạt Ma đang sống với chính phủ lưu vong của Ngài tại thị trấn Dharamsala, quận Kangra, tiểu bang Himachal Pradesh, miền bắc Ấn Độ. Ngoài ra, tại các tiểu bang khác trên toàn Ấn Độ hiện có khoảng 50.000 dân tỵ nạn Tây Tạng đang sinh sống. Từ ngày đức Đạt Lai Lạt Ma bỏ nước ra đi, Tây Tạng hoàn toàn bị Trung Cộng chiếm đóng cai trị. Những năm gần đây, nhà cầm quyền Trung Quốc nhiều lần ngỏ ý mời đức Đạt Lai Lạt Ma trở về nước, nhưng Ngài đã từ chối vì tự thấy rất khó có thể tin tưởng vào thiện chí của những người Cộng Sản.
Chủ trương đàn áp tiêu diệt Phật giáo Tây Tạng của Trung Cộng
 Theo tài liệu của ký giả John Avedon viết trong tờ Washington Post mà tạp chí Golden Drum (No. 8, Feb.–Apr.1988, London) trích đăng lại và bài viết “Tibet and Chinese: A Viewpoint” của John Mc Clelian đăng ở tạp chí “The Vajradhatu Sun” (Vol.9, No.2, Dec.87 – Jan.88) cho biết kể từ năm 1950 Trung Cộng xâm lăng Tây Tạng đến nay đã có 1,5 triệu (khoảng 1 phần 5 dân số) chư Tăng Ni và dân chúng Tây Tạng bị sát hại; 6.500 ngôi chùa bị phá hủy cùng nhiều kim loại quý và tác phẩm mỹ thuật Phật giáo trị giá khoảng 80 tỷ Mỹ kim đã bị nhà cầm quyền Trung Quốc tước đoạt. Trung Cộng hiện có 350.000 quân đóng ở Tây Tạng để kiểm soát 84 nhà tù đang còn giam giữ từ 20.000 đến 100.000 người, phần đông ở trại tập trung khổng lồ lớn nhất thế giới “Amdo Gulag”, miền đông bắc Tây Tạng. Những người bị giam ở đây phần lớn vì tội chống chính phủ, trong đó có Lạt Ma Geshe Lobsang Wangchuk, một Triết gia và Sử gia nổi tiếng Tây Tạng mà Hội Ân Xá Quốc Tế đã từng lên tiếng can thiệp (có tin Ngài đã chết trong tù ngày 04-11-1987).
 Ngoài việc chiếm đóng quân sự, hiện nay chính sách của Trung Cộng là muốn đồng hóa và làm suy yếu dân tộc Tây Tạng. Chính phủ đã khuyến khích 7,5 triệu dân Trung Quốc qua định cư sinh sống ở Tây Tạng. Mặc dù nhà cầm quyền Trung Cộng hứa hẹn giúp đỡ dân chúng Tây Tạng có công ăn việc làm và giáo dục cho trẻ em, nhưng theo tài liệu của Quốc Hội Hoa Kỳ cho thấy chính quyền Trung Quốc muốn kiềm hãm người dân Tây Tạng trong tình trạng lạc hậu và dốt nát. Cũng có tin nói rằng hàng ngàn phụ nữ Tây Tạng đã bị cưỡng bức phá thai, chẳng hạn John Avedon viết “Tại Lhasa nhiều phụ nữ Tây Tạng vừa sinh xong, nghe tiếng em bé khóc thì liền sau đó, họ được báo cho biết là đứa trẻ đã chết”.
 Ký giả Jack Anderson trên báo Washington Post (ngày 28-03-1988) đã viết: “Tây Tạng từ 38 năm qua dưới chính sách cai trị độc tài của Trung Cộng đã hoàn toàn bị cô lập, cắt đứt liên lạc với thế giới bên ngoài, nhưng mấy năm gần đây, nhằm thu hoạch ngoại tệ của khách du lịch, nhà cầm quyền Trung Quốc đã cho phép nhiều du khách đến viếng xứ này. Tháng 10 năm 1987, sau biến cố dân chúng Tây Tạng nổi lên biểu tình chống chính phủ, Tây Tạng lại bị đóng cửa trở lại. Chính quyền Trung Cộng đã ngăn cấm không cho du khách và ký giả Tây phương đến viếng Lhasa. Nhiều dân tỵ nạn Tây Tạng trốn ra được nước ngoài cho biết, nhà cầm quyền Trung Quốc vẫn tiếp tục bắt bớ, tra tấn, đàn áp, sát hại những phần tử chống đối… Chỉ hai ngày sau khi đức Đạt Lai Lạt Ma đến viếng thăm Hoa Kỳ đưa ra kế hoạch hòa bình giữa dân chúng Tây Tạng ủng hộ ông và chính quyền Trung Quốc, ngày 24-09-1987, quân đội và cảnh sát Trung Cộng đã tập trung bao vây 15.000 dân chúng Tây Tạng tại một sân vận động ở Lhasa để buộc họ chứng kiến lính Trung Cộng hành quyết hai người Tây Tạng theo quốc gia”.
 Theo bản báo cáo “Asia Watch” dày 74 trang được phổ biến tại Washington D.C. ngày 11-02-1988 của tổ chức Nhân Quyền “Human Rights Watch” cho biết các nhà chính trị tích cực bị chính quyền Trung Cộng bắt giam tại Tây Tạng phần đông họ là những phần tử dám phát biểu công khai chống đối sự cai trị và chính sách của Trung Quốc hoặc ủng hộ đường lối chính trị của đức Đạt Lai Lạt Ma và nền độc lập của Tây Tạng. Những cuộc bắt bớ thường xảy ra ban đêm và thân nhân gia đình không được thông báo trước. Người bị bắt không được đưa ra tòa xét xử mà thường trong khi lấy khẩu cung họ bị cưỡng bức ký vào những tờ giấy nhận tội đã làm sẵn. Lúc xét hỏi, họ thường bị tra tấn. Theo lời tường thuật của một người Tây Tạng tỵ nạn được Asia Watch phỏng vấn cho biết: Nếu ai can đảm dám phát biểu Tây Tạng là một quốc gia độc lập, chân tay họ liền bị xích lại và tra điện. Toàn thân nạn nhân run lên và không thể mở miệng nói gì hết.
 Tháng 01 năm 1988, hai nhân viên của Quốc Hội Hoa Kỳ, ông Paul H.Berkowitz và Keith J.Pitts phỏng vấn nhiều dân tỵ nạn Tây Tạng ở Nepal được họ kể cho biết rằng sau cuộc biểu tình chống Trung Quốc của dân chúng xảy ra ngày 01-10-1987, hiện nay tại Lhasa, nhà cầm quyền Trung Cộng vẫn tiếp tục đàn áp, bắt bớ, tra tấn, tù đày, tẩy não, bắn giết nhân dân Tây Tạng. Tờ Washington Post số ra ngày 29-01-1988 tường thuật là: “Một phụ nữ Tây Tạng đã bị công an Trung Cộng dùng điện tra tấn nơi chỗ kín. Người Trung Quốc đối xử với dân Tây Tạng như loài chó. Đó là nguyên nhân xảy ra các cuộc nổi dậy bạo động chống đối Trung Cộng của dân chúng Tây Tạng. Các nhà Sư bị cảnh sát đánh bằng xẻng và cuốc”.
 Khi ở Nepal, ông Pitts cũng được dân tỵ nạn Tây Tạng cho biết nhân viên chính quyền Trung Cộng hứa sẽ thưởng 100 mỹ kim cho bất cứ lính biên phòng Nepal nào bắt được một người Tây Tạng vượt biên trốn đi giao lại cho họ. Hãng thông tấn Associated Press ngày 25-01-1988 tường thuật hơn 5.000 dân chúng Tây Tạng đã bị bắt sau cuộc biểu tình chống chính phủ xảy ra ngày 01-10-1987, nửa trong số đó là phụ nữ và trẻ em. Họ bị giam trong các nhà tù với hoàn cảnh sinh sống thật hết sức tồi tệ chưa từng thấy, thường xuyên bị lấy khẩu cung, tra tấn và bỏ đói.
 Mặc dù bạo quyền Trung Cộng tìm mọi cách đàn áp khủng bố tinh thần dân chúng, họ vẫn không ngăn chặn được các cuộc biểu tình chống đối tiếp tục nổ ra. Cuối tháng 11 năm 1987, chư Tăng chùa Ganden (Cách Đăng), cách thủ đô Lhasa 40 cây số về hướng đông, đã phản đối sự hiện diện của quân đội Trung Quốc tại chùa họ. Một xe cảnh sát bị các nhà Sư đốt cháy và 80 vị Lạt Ma đã bị bắt. Cuộc biểu tình thứ hai xảy ra vào ngày 19-02-1987 khi 20 Ni cô Tây Tạng diễn hành quanh chùa Jokhang ở Lhasa và hô khẩu hiệu đả đảo quân đội Trung Cộng chiếm đóng Tây Tạng. Tất cả sau đó đều bị bắt.
 Để chống lại những người biểu tình, chính quyền Trung Cộng cho thành lập nhiều ủy ban tuyên truyền mà mục đích chính của họ là tổ chức các buổi học tập. Tại các lớp học này, người dân Tây Tạng bị cưỡng bức lên án các cuộc biểu tình đã xảy ra, kết tội những ai có ý tưởng muốn Tây Tạng độc lập hoặc ủng hộ đức Đạt Lai Lạt Ma lưu vong. Họ cũng bị bắt buộc bày tỏ ý muốn thấy Tây Tạng được sát nhập và thống nhất vào Trung Quốc v.v… Cũng theo bản báo cáo Asia Watch, hiện nay tại Tây Tạng nhà cầm quyền Trung Quốc giới hạn tối đa mọi công tác sửa chữa, trùng tu chùa chiền, kiểm soát tất cả như tài sản, tiền bạc của các tu viện, và ngăn cấm sự thuyết giảng truyền bá Phật pháp trong nước cũng như nỗ lực tách rời việc giáo dục Phật giáo ra khỏi ảnh hưởng của các chùa v.v… Chính quyền Trung Cộng còn cấm đoán người dân không được lưu giữ lá cờ quốc gia của Tây Tạng trước kia cũng như bất cứ tài liệu, vật dụng gì có liên quan đến những người Tây Tạng hiện đang sống tỵ nạn ở Ấn Độ.
Đại lễ cầu nguyện tại chùa Jokhang ở Lhasa biến thành biểu tình chống đối Trung Cộng xâm lăng Tây Tạng
 Một tuần trước khi xảy ra biến cố này, tình hình thủ đô Lhasa thật khẩn trương. Đài BBC ngày 28-02-1988 loan tin: “Hàng ngàn lực lượng an ninh và cảnh sát Trung Cộng được lệnh di chuyển vào Lhasa – các đường chính dẫn đến thủ đô đều bị phong tỏa. Nhiều đoàn xe bọc sắt đi tuần tiểu ngoài đường phố vào ban đêm và dân chúng được loan báo trên loa phóng thanh là nên ở trong nhà. Quân đội cũng cảnh cáo – Nếu ai bất tuân sẽ bị bắn ngay tại chỗ”. Hãng thông tấn Reuters đánh đi từ Bắc Kinh cho biết một tuần trước Đại Lễ Cầu Nguyện Monlam Chenmo, hàng ngàn cảnh sát Trung Cộng đội nón sắt, tay cầm dùi cui với 50 xe quân sự hướng dẫn cuộc tập dượt tuần hành xung quanh chùa Jokhang, nơi đại lễ nói trên sẽ được tổ chức. Các ký giả Tây phương ở Bắc Kinh bị nhà cầm quyền Trung Quốc từ chối, không cấp giấy phép đến thăm Lhasa. Ngoại trừ chỉ có thông tín viên đài BBC Tim Luard và ký giả hãng thông tấn Pháp Kathy Wilhelm được phép gia nhập cùng đi với một nhóm du khách đến Lhasa để dự xem lễ Monlam Chenmo.
 Khoảng 30 du khách ngoại quốc ở Lhasa nói rằng tình hình tại thủ đô hết sức căng thẳng và cảnh sát đã xét hỏi giấy thông hành của họ. Du khách được chính quyền cảnh cáo là không nên đến viếng các chùa và đừng tham dự vào bất cứ cuộc biểu tình nào chống chính phủ của dân chúng. Mặc dù nhà cầm quyền Trung Cộng đã chuẩn bị đối phó ngăn chặn các cuộc biểu tình xảy ra, nhưng vẫn thất bại. Theo tin tức đăng ở tờ New York Times số ra ngày 17-03-1988 cho biết hơn 5.000 dân chúng Tây Tạng đã tổ chức biểu tình tại Lhasa ngày 05-03-1988 và họ yêu cầu Trung Quốc trao trả độc lập cho Tây Tạng.
 Nguyên do phát xuất cuộc biểu tình trên là nhân dịp lễ bế mạc 10 ngày Đại Hội Cầu Nguyện Monlam Chenmo tại chùa Jokhang ở Lhasa, một nhà sư bị bắt vì đã đứng lên hô hào đòi quyền độc lập cho Tây Tạng. Bạo động xảy ra sau khi 2.000 cảnh sát võ trang và bán quân sự Trung Cộng tấn công chùa Jokhang. Cảnh sát dùng lựu đạn cay đàn áp và 100 vị Lạt Ma đã bị bắt. Một nhà sư 15 tuổi và ba thường dân đã bị cảnh sát bắn chết. Về phía cảnh sát có ba tên bỏ mạng theo tin của hãng thông tấn Pháp. Sau đó, dân chúng tức giận tấn công một bót cảnh sát và một văn phòng của Hội Phật Giáo Tây Tạng do nhân viên chính quyền Trung Cộng kiểm soát. Một du khách Hoa Kỳ, ông Benjamin Watson tường thuật rằng có 16 nhà sư Tây Tạng đã bị sát hại trong cuộc xung đột. Vài vị đã do cảnh sát bắn chết, có người bị ném từ trên tầng lầu cao xuống đất. Theo tin của tờ Newsweek ấn hành ngày 21-03-1988 tường thuật rằng: “Một du khách Nhật đã chứng kiến năm cảnh sát đánh vỡ đầu một nhà sư bằng gậy”.
 Báo The Wall Street Journal ngày 11-03-1988 đã cho biết “ít nhất có 600 người đã bị bắt sau khi xảy ra cuộc đụng độ hôm thứ bảy 05-03-1988 giữa cảnh sát và những người ủng hộ quyền độc lập của Tây Tạng”. Ngày 11-03-1988 nhà cầm quyền Trung Cộng đã cảnh cáo các phần tử Tây Tạng chống đối chính phủ phải ra trình diện vào ngày 20-03-1988, nếu không sẽ bị trừng phạt nặng. Chính quyền Trung Quốc đã đàn áp thẳng tay nhân dân Tây Tạng. Lực lượng an ninh võ trang đã bố ráp từng nhà để bắt những người bị tình nghi là theo chủ trương ly khai. Tuy nhiên, tình hình bất ổn ở thủ đô Lhasa vẫn lan tràn đến các nơi khác. Báo Ottawa Citizen tường thuật cho biết là ngày 11-03-1988 có nhiều vị Lạt Ma và các em học sinh trung học ở tỉnh Amdo, phía đông bắc Tây Tạng đã nổi dậy đòi nhà cầm quyền Trung Cộng trao trả độc lập cho quốc gia họ. Họ cũng phản đối chương trình kế hoạch hóa gia đình và hành động cưỡng bức phụ nữ Tây Tạng phá thai của chính quyền.
 Cuộc biểu tình lớn ngày 05-03-1988 tại thủ đô Lhasa xảy ra trùng hợp với chuyến sang thăm chính thức Hoa Kỳ của ông Wu Xuequian, bộ trưởng ngoại giao Trung Cộng. Trước đó, ông ta tuyên bố muốn gặp thảo luận với các dân biểu Quốc Hội Hoa Kỳ bất cứ vấn đề gì, kể cả Tây Tạng. Tuy nhiên, sau biến cố ngày 05-03-1988, ông Wu đã hủy bỏ cuộc gặp gỡ dự trù sẽ diễn ra vào ngày 08-03-1988 với các nhân vật trong Ủy Ban Ngoại Giao của chính phủ Mỹ. Tòa đại sứ của Trung Cộng ở Hoa Thịnh Đốn cũng không đưa ra lời giải thích nào về việc hủy bỏ đó. Ngày 07-03-1988, đức Đạt Lai Lạt Ma đã gửi một văn thư cho tổng thống Reagan và yêu cầu ông lên tiếng về tình hình ở Tây Tạng, nhưng không thấy tổng thống Reagan nói gì. Tuy nhiên, theo tin từ tòa Bạch Ốc, ông Schultz, bộ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ, trong cuộc gặp gỡ với ông Wu, có đề cập đến vấn đề Tây Tạng.
 Thái độ của chính phủ Hoa Kỳ trước hành động vi phạm nhân quyền của nhà cầm quyền Trung Cộng ở Tây Tạng
 Ngày 18-06-1987, hạ viện Mỹ đã thông qua một nghị quyết lên án hành động vi phạm nhân quyền của chính quyền Trung Quốc ở Tây Tạng và một dự luật tương tự cũng được thông qua tại thượng viện ngày 09-10-1987.
 Ngày 21-09-1987, đức Đạt Lai Lạt Ma, lãnh đạo chính phủ lưu vong Tây Tạng ở Dharamsala (Ấn Độ) đưa ra kế hoạch 5 điểm nhằm giải quyết vấn đề Tây Tạng:
 1) Biến Tây Tạng thành một khu vực hòa bình. Tây Tạng cần được duy trì như một quốc gia Phật giáo hòa bình và trung lập.
 2) Chấm dứt sự di dân Trung Quốc ồ ạt vào Tây Tạng.
 3) Tôn trọng quyền tự do dân chủ và nhân quyền căn bản của nhân dân Tây Tạng.
 4) Duy trì và bảo vệ môi trường sinh sống thiên nhiên ở Tây Tạng, kể cả việc chấm dứt sản xuất vũ khí nguyên tử và vứt bỏ những cặn bã của vật dụng nguyên tử vào lãnh thổ Tây Tạng.
 5) Khởi đầu các cuộc thương thuyết về địa vị tương lai của Tây Tạng cùng sự quan hệ giữa nhân dân Trung Quốc và Tây Tạng.
 Trong văn thư gửi cho thủ tướng Trung Cộng, các dân biểu của thượng và hạ viện Quốc Hội Hoa Kỳ, kể cả ông Claiborne Pell, chủ tịch ủy ban liên lạc ngoại giao hạ viện và Dante Fascell, chủ tịch ủy ban ngoại giao thượng viện Hoa Kỳ, đã ủng hộ đề nghị năm điểm của đức Đạt Lai Lạt Ma, xem đó như là “một bước tiến lịch sử nhằm giải quyết thỏa đáng vấn đề thiết yếu của Tây Tạng cùng làm giảm bớt sự đau khổ cho nhân dân Tây Tạng”.
 Về phía Trung Quốc, trong bài Xã Thuyết đăng ở tờ nhân dân nhật báo số ra ngày 07-10-1987, chính quyền Trung Cộng đã lên án đề nghị năm điểm của đức Đạt Lai Lạt Ma, xem đó như là mục đích nhằm phục hồi nền độc lập của Tây Tạng, chia cắt đất nước, phá hoại tinh thần đoàn kết giữa các chủng tộc và vi phạm đến sự toàn vẹn lãnh thổ của Trung Quốc. Trung Cộng cũng trách cứ nói rằng, chính đức Đạt Lai Lạt Ma phải chịu trách nhiệm về những xáo trộn xảy ra gần đây ở Lhasa. Trong một thông cáo phổ biến ở Bắc Kinh, nhà cầm quyền Trung Cộng tuyên bố rằng vấn đề Tây Tạng là hoàn toàn thuộc nội bộ của Trung Quốc. Chính quyền đã từ chối việc cho phép một phái đoàn điều tra của Quốc Hội Hoa Kỳ sang Tây Tạng để quan sát về tình trạng vi phạm nhân quyền tại đây. Ngày 18-10-1987, Đặng Tiểu Bình tình, nhân vật lãnh đạo cao cấp của Trung Quốc ra thông báo nói rằng “vấn đề liên quan đến Tây Tạng là công việc nội bộ của Trung Quốc, Quốc Hội Hoa Kỳ không có quyền can dự vào”.
 Ngày 03-10-1987, tại Dharamsala (Ấn Độ) đức Đạt Lai Lạt Ma đã lên tiếng: “Tôi rất đau buồn và xót thương cho các Tăng Ni cũng như Phật tử đã bỏ mình và bị thương trong những cuộc biểu tình chống chính phủ Trung Cộng gần đây ở Tây Tạng. Tôi tin rằng bạo lực không phải là phương pháp để giải quyết vấn đề. Tôi kêu gọi các tổ chức nhân quyền cùng những người ủng hộ sự tự do và công bằng trên thế giới hãy thuyết phục nhà cầm quyền Trung Quốc nên chấm dứt hành động tàn sát những dân lành vô tội và phóng thích các tù nhân đang bị giam giữ ở Tây Tạng”. Ngày 08-10-1987, hãng thông tấn Associated Press trích dẫn lời đức Đạt Lai Lạt Ma phát biểu: “Tôi không thể làm nản lòng ý chí quyết định về nền độc lập của nhân dân Tây Tạng, nhưng tôi cũng không muốn chấm dứt mối quan hệ trực tiếp giữa tôi với chính quyền Trung Cộng”.
 Trên đây, chúng tôi xin lược tóm trình bày đại cương qua sự tường thuật của các hãng thông tấn và báo chí Tây phương về những diễn biến “pháp nạn” đã xảy ra tại quốc gia Tây Tạng từ hơn 50 năm qua cũng như thời gian sau này, tháng 10 năm 1987 đến tháng 03 năm 1988 mà hàng triệu chư Tăng Ni, Phật tử và dân chúng Tây Tạng đã phải âm thầm hy sinh và chịu đựng dưới chế độ cai trị độc tài, tàn ác của chính quyền Trung Cộng hầu giúp quý độc giả Phật tử gần xa nhận thức và chia xẻ phần nào nỗi khổ đau tủi nhục triền miên của những người con Phật nơi đất nước Tây Tạng.
 Chúng ta cầu nguyện cho nhân dân Tây Tạng chóng đạt được thành quả trong mục tiêu tranh đấu giành lại chủ quyền độc lập cho quốc gia để ánh đạo vàng của đức Thế Tôn có dịp được phát triển, và bành trướng mạnh mẽ như ngày nào hơn 50 năm trước dưới sự lãnh đạo tài đức của các vị Đạt Lai Lạt Ma Tây Tạng nơi vùng đất xa xôi quanh năm tuyết phủ này.
Tài liệu tham khảo :
1. Michael Buckley & Robert Strauss, Tibet – A Travel Survival Kit, Lonely Planet Publications, Victoria, Australia, 1986.
2. Dalai Lama, My Land and My People, Potala Publications, New York, 1985.
3. L.Austine Waddell, Tibetan Buddhism, With Its Mystic Cults, Symbolism and Mythology, Dover Publications, New York, 1972.
4. Roger Hicks & Ngakpa Chogyam, Great Ocean –An Authorised Biography The Dalai Lama, Elements Books Ltd., Longmead, England, 1984.
5. Các báo, tạp chí: – Golden Drum, No.8 February –April 1988, Windhorse Publications, Glasgow, Scotland.
– Snow Lion Newsletter, Snow Lion Publications, Vol.3, No.1 New York, Spring 1988.
– The Vajradhatu Sun, December 1987 –January 1988, Vol.9, No.2 & April –May 1988, Vol.10, No.4.
– The Post Standard, 07-03-1988, Hongkong.
– The Wall Street Journal, 11-03-1988.
– The New York Times, 07 & 17-03-1988.
– The Washington Post, 28-03-1988
Máu nhuộm đường “Tơ Lụa”
Một sự kiện gấy sốc toàn thế giới vào tháng 9 năm 2006, với đoạn film được ghi lại từ những nhà leo núi thế giới, khi đang thám hiểm ngọn Nangpa Pass thuộc rặng Hymalaya.
Đoàn người leo núi ghi lại những hình ảnh và film khi phát hiện đoàn người Tây Tạng đang trên đường vượt thoát khỏi Tây Tạng, bị lính biên phòng Trung Quốc dùng súng trường bắn chết họ. (Giống như hoàn cảnh Thuyền Nhân Việt Nam xưa kia tẩu thoát khỏi Việt Nam bằng thuyền hoặc bằng đường bộ)
Xem trong Video chúng ta thấy lính biên phòng Trung Cọng có súng trang bị hệ thống nhắm từ xa bắn thẳng vào đoàn người Tây Tạng khiến cho đoàn thám hiểu leo núi người Tây phương vô cùng sửng sốt trước hành động vô nhân đạo này. Nhân chứng là cô thiếu nữ Kelsang Namtso thoát chết trên đường vượt thoát. Đoàn thám hiểm leo núi đã tiếp tay cứu giúp,và đưa đoạn film ghi được ra về New York và được truyền thông trên thế giới… Ngọn Nangpa Pass là trục được nối từ Tibel đến Nepal. Đây là con đường “Tơ Luạ” nổi tiếng từ xa xưa., (Được đặt tên: Máu nhuộm đường “Tơ Lụa”)
Screen-Shot-2012-09-18-at-3.31.23-PM

Ngoại trưởng Mỹ

Ngoại trưởng Mỹ: Đến lúc sang trang mới ở Biển Đông

Dân trí Ngoại trưởng Mỹ John Kerry hôm qua 26/7 cho rằng đã đến lúc tránh các căng thẳng ở Biển Đông. Ông cũng cam kết sẽ thuyết phục Philippines nối lại đàm phán với Trung Quốc về vấn đề tranh chấp.
 >> Mỹ tuyên bố tiếp tục tuần tra tự do hàng hải tại Biển Đông
 >> Trung Quốc nhờ Mỹ nối lại đàm phán song phương với Philippines về Biển Đông
 >> ASEAN ra tuyên bố chung lên án hành động của Trung Quốc ở Biển Đông


Ngoại trưởng Mỹ John Kerry. (Ảnh: Getty)
Ngoại trưởng Mỹ John Kerry. (Ảnh: Getty)
Tại hội nghị cấp cao ASEAN diễn ra ở Lào hôm qua 26/7, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry nói rằng, đã đến lúc tránh xa các căng thẳng tranh chấp ở Biển Đông và bước sang một trang mới. Ngoài ra, ông cũng cam kết sẽ hối thúc Philippines chấp thuận nối lại đàm phán với Trung Quốc trong cuộc hội đàm với Tổng thống Philippines Rodrigo Duterte vào hôm nay.
Ông Kerry nói rằng, Bắc Kinh và Manila đã cho thấy tín hiệu sẵn sàng đàm phán sau khi tòa trọng tài quốc tế bác “đường chín đoạn” của Trung Quốc ở Biển Đông.
“Hi vọng rằng đây có thể trở thành thời khắc chúng ta có thể tận dụng, để làm việc tìm ra các phương cách giải quyết vấn đề đánh bắt cá, tài nguyên thiên nhiên, tự do hàng hải và bảo vệ quyền lợi của tất cả các bên”, ông Kerry nói.
Ông nhấn mạnh thêm: “Đây có thể là thời khắc quan trọng chuyển biến cách thức đàm phán, không phải thông qua các thách thức và hành động đơn phương mà thông qua các biện pháp ngoại giao mang tính xây dựng”.
Nhắc lại lời người đồng cấp Trung Quốc Vương Nghị, ông Kerry cho biết, Mỹ nhất trí nên “tránh các căng thẳng”, “bước sang trang mới” ở Biển Đông sau phán quyết của tòa trọng tài. "Ngoại trưởng Trung Quốc đã nói với tôi rằng, giờ là lúc vượt qua những căng thẳng thời gian qua và bước sang trang mới. Và chúng tôi nhất trí rằng không bên nào hành xử theo cách khiêu khích, cũng như không bên nào nên đưa ra những động thái có thể làm gia tăng căng thẳng. Chúng ta vẫn còn một nhiệm vụ hay còn là một thách thức ở phía trước. Chúng tôi vẫn đang cố gắng hướng thảo luận để bảo đảm rằng các bên sẽ giải quyết những vấn đồng thông qua ngoại giao và pháp trị", ông Kerry nói.
Ngoại trưởng Kerry nhắc lại, Mỹ không đứng về bên nào trong tranh chấp ở Biển Đông nhưng khẳng định, luật pháp quốc tế phải được tôn trọng.
Những bình luận trên của ông Kerry được đưa ra sau khi Ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị ngỏ lời nhờ Mỹ thuyết phục Philippines nối lại đàm phán về vấn đề tranh chấp ở Biển Đông.
Trong một diễn biến liên quan, tại cuộc hội đàm với giới chức Trung Quốc ngày 25/7, Cố vấn an ninh quốc gia Mỹ Susan Rice đã hối thúc các bên hạ nhiệt căng thẳng ở Biển Đông, đồng thời khẳng định Mỹ sẽ tiếp tục các hoạt động tuần tra tự do hàng hải ở khu vực này trong bối cảnh Trung Quốc tiếp tục các hoạt động bồi đắp trái phép ở Biển Đông.
Tại hội nghị cấp cao diễn ra hôm qua, giới chức ASEAN đã ra tuyên bố chung lên án các hoạt động cải tạo phi pháp của Trung Quốc ở Biển Đông mặc dù không đề cập đến phán quyết của tòa trọng tài.
Xu Liping, một chuyên gia nghiên cứu cấp cao về Đông Nam Á tại Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc, cho rằng hội nghị ngoại trưởng cấp cao ASEAN có thể là khởi đầu cho quá trình hạ nhiệt căng thẳng ở Biển Đông. Bước tiếp theo sẽ là tái xây dựng lòng tin giữa các bên thông qua đàm phán, chuyên gia này nhận định.
Minh Phương - Ngọc Anh
Tổng hợp

TÂM NHU: Vũ Đông Hà - Cuộc xâm lược và tàn phá Việt Nam khô...

TÂM NHU: Vũ Đông Hà - Cuộc xâm lược và tàn phá Việt Nam khô...: Vũ Đông Hà - Cuộc xâm lược và tàn phá Việt Nam không cần vượt biên giới của Trung cộng Vũ Đông Hà (Danlambao) - Cuộc xâm lược k...

Vũ Đông Hà


 Cuộc xâm lược và tàn phá Việt Nam không cần vượt biên giới của Trung cộng

Vũ Đông Hà 


Thứ Tư, ngày 27 tháng 7 năm 2016


Vũ Đông Hà (Danlambao) - Cuộc xâm lược khởi đi vào năm 1990 và âm thầm tiến hành kể từ sau Mật nghị Thành Đô. Những căn cứ chiến lược đã được từng bước cài đặt, xây dựng trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Những nòng súng đại bác được thế chỗ bởi những ống thải, những hầm chứa bùn; những mìn, bom, đạn được thay thế bởi những hóa chất độc hại. Nó là một cuộc xâm lược mà kết quả không là những chiến trường khói lửa, những làng mạc bị đốt phá, những xác người xình thối trên núi rừng Việt Bắc. Kết quả của cuộc chiến là một đất nước Việt Nam, từ núi rừng đến nông thôn, thành thị vẫn nguyên vẹn nhưng nguồn sống bị tiêu diệt. Một vùng biển chết. Những sông hồ chết. Một núi rừng cao nguyên chết. Một đồng bằng Cửu Long chết. Và hơn 90 triệu người Việt Nam bệnh hoạn, dật dờ.

Tháng 4 năm 2016 là một cuộc tập trận thử nghiệm. Chỉ trong vòng vài ngày, thông qua một nhà máy luyện thép chưa thật sự đi vào hoạt động, cuộc thử nghiệm đã tạo ra một khủng hoảng môi trường lớn nhất trong lịch sử của quốc gia nằm trong kế hoạch xâm lược của Bắc Kinh. Hàng triệu cá tôm bị tàn sát, biển Đông dọc theo xương sống miền Trung rơi vào tình trạng bị phá hủy ở mức độ nhiều năm không thể phục hồi. Trong đất liền, thông qua những hạ tầng cơ sở đã được âm thầm xây dựng, kết quả của cuộc tập trận là trải dài từ miền Trung xuống miền Nam lên miền Bắc - cá chết phơi bụng trắng hếu tràn ngập nhiều sông hồ.

Một cuộc thử nghiệm tàn sát khủng khiếp, lan rộng, có sức tàn phá im lặng, lâu dài, không cần một lời tuyên chiến. Và không cần một tiếng súng.

Tháng 4 năm 2016 cũng là cuộc thử nghiệm của Bắc Kinh để đánh giá phản ứng của một dân tộc đang nằm trong tiến trình xâm lược của họ. Đó là phản ứng của đảng lãnh đạo, chính phủ và của 90 triệu người dân Việt Nam. Họ đã tìm thấy câu trả lời:

- Người đứng đầu đảng lãnh đạo ngoan ngoãn thân chinh đến đại bản doanh, nơi mà những thủy lôi phenol, cyanide và nhiều hóa chất độc hại bí mật khác được bắn đi, để gián tiếp xác định quan hệ khắng khít giữa 2 bên. Sau đó ngoan ngoãn im lặng trước khủng hoảng của đất nước; ngoan ngoãn theo đúng bài bản của quan thầy - ra lệnh cho toàn đảng tập trung vào những "việc cần làm ngay": thanh trừng phe nhóm kẻ thù trong nội bộ đảng.

- Toàn bộ quốc hội, những người tự cho là đại diện cho hơn 90 triệu dân, hoàn toàn im lặng; toàn bộ các tướng lãnh quân đội án binh bất động; toàn bộ hệ thống an ninh, mật vụ, công an tập trung vào việc trấn áp bất kỳ người dân nào đứng lên đòi hỏi phải bảo vệ môi trường, yêu cầu làm sáng tỏ nguyên nhân, thủ phạm gây ra thảm trạng cá chết.

- Toàn bộ các quan chức đứng đầu các ban ngành liên quan tìm đủ mọi cách để đánh lừa dư luận, sẵn sàng tiếp tục để cho người dân tiếp tục xuống biển, tiêu thụ thức ăn có xác suất bị nhiễm độc bằng thông điệp xuyên qua lời nói lẫn hành động của họ: cá, biển vẫn an toàn.

- Đại đa số 90 triệu người dân vẫn tiếp tục quay cuồng với cuộc sống riêng tư và vô cảm. Hiện tượng cá chết chỉ đủ để nhiều người ngưng ăn hải sản vài tuần, tích trữ hàng chục chai nước mắm trong nhà và quan tâm lắm là một tiếng thở dài lặng lẽ. Chỉ có vài ngàn người đứng lên bảo vệ sự tồn vong của đất nước, vũ khí trong tay của họ là một bàn phím, một tấm bảng biểu ngữ A4, một hình cá chết trên mặt. Tất cả đều bị đảng và nhà cầm quyền CSVN xem là những kẻ kích động, phá hoại và thẳng tay đàn áp, bắt giam.

Tháng 4, năm 2016. Cuộc thử nghiệm của Bắc Kinh thành công mỹ mãn. Thành công không nằm ở hàng triệu con cá chết để bộ Tổng tham mưu đầu não cụng ly Mao Đài chúc mừng nhau. Thành quả lớn nhất của cuộc tập trận không tiếng súng là lời đáp cho câu hỏi: 90 triệu người dân Việt Nam có còn ý chí đứng lên bảo vệ giang sơn như cha ông của họ đã từng tranh đấu trong mấy ngàn năm để chống lại sự xâm lăng của Bắc Triều hay không?

Từ những cuộc bắt giết ngư dân, từ những lần tập trận thử nghiệm chiến tranh tâm lý mang tên Cáp Quang AGG, Bình Minh 02, HD-981... sang đến FHS, Bắc Kinh đã có câu trả lời dứt khoát: Những gì diễn ra từ đầu tháng 4 năm 2016 đến nay với thái độ của đảng và nhà nước CSVN, với phản ứng của đa số 90 triệu người dân Việt Nam, cho thấy đất nước và dân tộc Việt đã có những chỉ dấu chín muồi để trở thành những kẻ nô lệ và những người mất nước.

*

Ngày 2 tháng 9 năm 2020. Hàng triệu triệu con cá phơi kín bờ biển Đông, trắng khắp sông hồ từ Nam ra Bắc. Bùn đỏ tràn khắp Bảo Lâm - Lâm Đồng. Mọi nguồn nước uống tại thủ đô và các thành phố lớn nhỏ đều nhiễm độc. Những tuyến đường sắt, cao tốc ngưng hoạt động vì những "sự cố" không thể giải thích. Nhiều công trình xây dựng, giao thông bị sụp đổ, rạn nứt bất ngờ. Trước đó, hàng trăm ngàn trẻ em sinh ra với nhiều biến thái và bị bệnh Down, cả năm trời các nhà thương lớn nhỏ đầy ắp bệnh nhân với những chứng bệnh ngặt nghèo bùng phát.

Ngày 2 tháng 9 năm 2020. Toàn bộ các nhà máy điện khắp nước ngưng hoạt động, cả một mảnh đất dài 1648 km rơi vào cơn khủng hoảng với bóng tối bao phủ khi đêm về. Toàn bộ các cây xăng phải đóng cửa vì nguồn cung cấp nhiên liệu từ bên kia biên giới đột ngột chấm dứt. Thực phẩm, đồ tiêu dùng trở nên khan hiếm trầm trọng, trong khi trước đó toàn bộ những vụ mùa từ Bắc ra Nam, mạ đã chết trước ngày lúa trổ bông. Dòng sông Đồng Nai thẩn thờ với mực nước thấp chưa từng thấy trong lịch sử và toàn bộ đồng bằng sông Cửu Long là một vùng đất khô cằn, nứt nẻ. Trong khi đó, đèn đuốc tại các công trình xây dựng có những bảng hiệu chữ Tàu thì sáng rực một góc trời.

Cuối năm 2020. Tổng bí thư đảng cộng sản tại Ba Đình nhân danh toàn thể nhân dân Việt Nam thành kính tri ân đảng cộng sản và nhân dân Trung Quốc đã nhiệt tình viện trợ cứu đói cấp thời; đã nhanh chóng gửi chuyên viên, công an và quân đội sang tận nơi để giúp ổn định tình hình, bảo vệ an ninh quốc gia đang có nguy cơ bị "các thế lựu thù địch" âm mưu đánh phá; phục hồi lại sinh hoạt tối thiểu hàng ngày cho người dân Việt Nam. Tại Hà Nội, một cuộc mít tinh vĩ đại được tổ chức với hàng trăm ngàn đoàn viên Thanh niên Cộng sản giương cao hình Hồ Chí Minh và Tổng bí thư đảng cộng sản Trung Quốc. Khẩu hiệu đời đời nhớ ơn đảng cộng sản và nhân dân Trung Quốc trộn lẫn với cờ đỏ 6 sao vàng đỏ rực một bầu trời.

Đầu năm 2021. Thành phố Hồ Chí Minh chính thức đổi tên thành quận Hồ Quang.

*

Tháng 7, 2016.

Những con cá chết đã tan biến, mục rữa vào hư không theo cái nắng của mùa hè nghiệt ngã. Đường phố Sài Gòn, Hà Nội vẫn rộn rã tiếng còi xe, những tiếng cười pha lẫn tiếng chửi thề. Giữa dòng đời vô cảm, vẫn còn đó những người cô đơn bó gối với niềm đau quặn thắt trong lòng, nhức nhối con tim khi nhìn lên tờ lịch và nghĩ đến con số 2020 như một định mệnh bi thảm đang đón chờ. Và vẫn còn đó, ngồi yên những con người yêu nước này nhìn những con người yêu nước kia bằng một cặp mắt xa và lạ.

Đất nước tôi, đã biết bao nhiêu mồ hôi, nước mắt, xương máu đổ ra, bao nhiêu người hy sinh nằm xuống trên từng ngọn cỏ, từng gốc cây, từng đỉnh đồi... chiến đấu bảo vệ giang sơn. Không lẽ rồi đây tất cả đều sẽ trở thành vô nghĩa!?

Bạn tôi ơi! thôi đừng theo một lời kêu gọi nào của ai khác. Chỉ lắng nghe tiếng gọi của con tim mình.


27.07.2016

Kẻ sĩ thời…tiến sĩ

Kẻ sĩ thời…tiến sĩ

Zing  2 đăng l
Những phát ngôn bên hành lang Quốc hội về Formosa tuần qua của đại biểu Trần Hoàng Ngân nhắc nhớ về một trí thức Sài Gòn, không ngại đụng đến vấn đề nóng và luôn đưa ra giải pháp.
Trả lời truyền thông bên hàng lang Quốc hội tuần qua, Đại biểu Trần Hoàng Ngân quyết liệt: "Những dự án nào không thỏa mãn tiêu chí môi trường thì phải ngừng ngay và Formosa là dự án tiêu điểm. Hậu quả đầu tư có, nhưng cũng sẽ không lớn bằng hậu quả mà để một nhà đầu tư nước ngoài đã có lý lịch không tốt về môi trường, lại tiếp tục tàn phá môi trường".
Ke si thoi…tien si - Anh 1
PGS TS Trần Hoàng Ngân lúc còn làm trưởng khoa Ngân hàng, ĐH Kinh tế TP HCM.
Không chỉ dừng ở câu chuyện của Formosa là của Hà Tĩnh đại biểu Trần Hoàng Ngân đánh giá sự quan trọng đặc biệt của sự việc ở Formosa. Ông cho rằng đó là các vấn đề liên quan đến hàng loạt các tỉnh miền Trung, đến ngành về kinh tế biển, ngành về du lịch và cả đất nước, nền kinh tế quốc gia.
Và ông mạnh dạn đề xuất lập ủy ban giải quyết vấn đề Formosa: "Do đó, vấn đề Formosa khi giải quyết phải xem đây là vấn đề quốc gia, không thể giao cho UBND tỉnh Hà Tĩnh hay sở TNMT tỉnh để giải quyết. Cần phải có một Ủy ban quốc gia giải quyết vấn đề này".
Ke si thoi…tien si - Anh 2
PGS TS Trần Hoàng Ngân, giám đốc Học viện cán bộ TP HCM, đại biểu Quốc hội khóa XIII, XIV.
TS Trần Hoàng Ngân, một người Sài Gòn đúng nghĩa, đi lên bằng chính tài năng và thực học và không bao giờ quên lãng số phận của những người dân nghèo, như chính quá khứ của bao người Sài Gòn dựng nghiệp, không quên những vấn đề hệ trọng của đất nước ảnh hưởng đến người dân.
Đọc phát biểu của ông Trần Hoàng Ngân lần này làm tôi lập tức nhớ về kiện hưởng ứng chương trình “Đổi chuông gió, lấy một ngôi trường” do nhà văn trẻ Nguyễn Lê My Hoàn, biên tập tạp chí HTV Chuông gió.
Ủy ban Kinh tế, Ủy ban Khoa học Công nghệ và Môi trường Quốc hội phải tăng cường giám sát. Đây là nội dung cử tri đã đặt hàng, nên phải tăng cường giám sát để trả lời thỏa đáng cho cử tri, dự án này có xứng đáng tồn tại hay không.
Đại biểu Quốc hội Trần Hoàng Ngân
Lúc đó ông đề nghị: “Nếu có ai đủ điều kiện đứng ra xây mới lại ngôi trường cho các em nhỏ người Vân Kiều ở bản Khe Ngài, Quảng Trị, tôi sẽ đạp xích lô chở người ấy dạo phố Sài Gòn”. Lời tuyên bố ấy đã được ông Cô Gia Thọ, Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc Công ty cổ phần sản xuất Thiên Long, chấp nhận. Cuốc xích lô đặc biệt giữa một PGS.TS và một ông chủ doanh nghiệp đã làm nhiều người xúc động bởi tấm lòng “Tất cả vì đàn em thân yêu”.
Nhà báo Nguyễn Chương đã viết “Cuốc xích lô giá... 400 triệu” trên báo Tuổi Trẻ số ra ngày 6/6/2007, rằng: “Ngày 26/5/2007, nhiều người đi trên đường Phạm Thế Hiển, Âu Dương Lân (quận 8), Trần Hưng Đạo (quận 1, TP HCM)... chợt dừng lại để dán mắt vào một chiếc xích lô có phần... quái quái. Người đạp xe là tiến sĩ Trần Hoàng Ngân, hiện là trưởng khoa ngân hàng ĐH Kinh tế TP.HCM; khách ngồi xe là anh Cô Gia Thọ, tổng giám đốc Công ty Thiên Long”.
Cuốc xích lô, đối với ông Ngân, vừa là một hồi tưởng quá khứ, vừa là một lời hẹn với tương lai. Ngày trước khi còn ở Xóm Chì bên quận 8, ông Ngân phải chạy xích lô kiếm sống và trang trải cho giấc mơ sinh viên của mình.
Ông Ngân tâm sự: “Tôi biết đến câu chuyện Khe Ngài nhưng làm sao góp nổi tiền, thôi thì nếu ai chịu bỏ tiền đủ để xây trường, tôi sẵn sàng đạp một cuốc xích lô chở đi dạo phố một vòng!”. Cuốc xích lô thật... đắt giá: 400 triệu đồng cho một ngôi trường gồm ba phòng học khang trang ở bản Khe Ngài.
Ngày 18/5/2007, ngôi trường tiểu học đơn sơ của các bạn nhỏ Vân Kiều đã chính thức được khởi công xây dựng đến 3/9/2007 thì khánh thành.
Đó chỉ là một trong câu chuyện của một người sài Gòn yêu đời và sống hết lòng vì đời, vượt trên những lợi ích, toan tính mà chức vụ ,quyền hạn của ông có thể ảnh hưởng. Còn nhớ “Thất trảm sớ nghĩa động quỷ thần” nói về kẻ sĩ Chu Văn An dâng sớ lên vua đòi chém 7 gian thần, hay “Đầu thần chưa rơi xin bệ hạ đừng lo” của thái sư Trần Thủ Độ khi sơn hà nguy biến.
Cần lắm những tiếng nói trung thực, tiếng dân trên diễn đàn Quốc hội và những kẻ sĩ thời hiện đại như PGS TS Trần Hoàng Ngân. Một người xứng đáng là kẻ sĩ trong thời buổi tiến sĩ …chạy đầy đường nhưng bịt khẩu trang tâm hồn “giả điên”, “giả ngu” trước những vấn đề công chúng mong họ lên tiếng với tên tuổi và học thuật của mình.
Hoàng Linh

biệt thự khủng

Phát hiện biệt thự khủng 'nội bất xuất, ngoại bất nhập' của nguyên Bí thư Tỉnh ủy Hà Tĩnh Võ Kim Cự

Căn biệt thự "khủng" của nguyên Bí thư Tỉnh ủy Hà Tĩnh Võ Kim Cự án ngữ ngay trung tâm TP Hà Tĩnh và luôn "cửa đóng then cài".
Video cận cảnh căn biệt thự "khủng" của ông Võ Kim Cự, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Hà Tĩnh.
Căn biệt thự “khủng” của ông Võ Kim Cự, nguyên Bí thư Tỉnh ủy, nguyên Chủ tịch HĐND tỉnh Hà Tĩnh có mặt tiền hướng ra quốc lộ 1A, tọa lạc tại khu đất vàng, thuộc khu phố 5, phường Nam Hà, TP.Hà Tĩnh (tỉnh Hà Tĩnh).
Theo quan sát của phóng viên phapluatplus.vn, kiến trúc dinh biệt thự của ông Võ Kim Cự được thiết kế theo phong cách biệt thự cao cấp đặc biệt, màu trắng xám, đẹp kiêu sa, lộng lẫy, cao 3 tầng, tường gạch và ngói màu xám rất giá trị.
Ngôi biệt thự tọa lạc tại số 03, đường Hà Huy Tập, TP Hà Tĩnh. Toàn bộ ngôi biệt thự nằm trên khu đất rộng lớn, sát cạnh tòa nhà 16 tầng của Trung tâm Thương mại BMC Hà Tĩnh (tòa nhà cao nhất TP Hà Tĩnh tính đến thời điểm hiện tại).
Phat hien biet thu khung 'noi bat xuat, ngoai bat nhap' cua nguyen Bi thu Tinh uy Ha Tinh Vo Kim Cu - Anh 1
Căn biệt thự của ông Võ Kim Cự được xây dựng trên diện tích hàng trăm m2 nằm ngay trung tâm TP Hà Tĩnh.
Theo những người láng giềng thì ông Võ Kim Cự, chủ biệt thự thỉnh thoảng mới về. Hiện người thân của ông Cự đang ở, quản lý căn biệt thự này.
Theo một người dân ở đối diện cho biết, căn biệt thự trên được xây dựng từ trước năm 2010, sau đó thì tiếp tục được cơi nới, tu bổ thêm, tiến tới hoàn thiện theo phong cách biệt thự đời mới, bên ngoài có kiến trúc phương tây, bên trong có nhiều loại gỗ quý, đá quý giá trị.
Nhiều người dân dù ở sát bên cạnh biệt thự cũng hiếm khi được vào bên trong, luôn “cửa đóng then cài”. Khách ra vào của gia chủ Võ Kim Cự đa phần là cán bộ địa phương và các doanh nghiệp lớn trên cả nước.
Một cán bộ UBND phường Nam Hà cho biết, toàn bộ căn biệt thự “khủng” trên được xây dựng trên hàng trăm m2 đất ở đã có sổ đỏ và đất nằm ngoài sổ đỏ (chưa được cơ quan chức năng có thẩm quyền cấp phép).
Trước một số thông tin phản ánh của bạn đọc về ngôi biệt thự này, phóng viên Phapluatplus.vn đã cố gắng làm việc với lãnh đạo chính quyền địa phương nhưng những vị lãnh đạo ở đây đang né tránh, chưa đưa ra lịch hẹn làm việc cụ thể để có câu trả lời thỏa đáng.
Phapluatplus.vn sẽ tiếp tục thông tin về vụ việc này.
Nguyễn Sông Mây