Tìm kiếm Blog này

Thứ Bảy, 27 tháng 10, 2018

Quá trình xây dựng Đinh Tiên Hoàng trở thành một biểu tượng đa năng

27/10/2018 07:00 - Trần Trọng Dương
Trong nhiều ghi chép lịch sử từ thời trung đại cho đến các nghiên cứu của giới học giả hiện đại, Đinh Bộ Lĩnh đã hiện lên như là một biểu tượng đa chiều kích với nhiều chức năng khác nhau. Bài này, sẽ đưa ra những góc nhìn mới về Đinh Tiên Hoàng từ góc độ của biểu tượng học lịch sử. Từ các sử liệu quan phương, biểu tượng lịch sử Đinh Tiên Hoàng hiện lên như là kết quả của quá trình kiến tạo lịch sử và sự truyền bá nội hàm biểu tượng (với các diễn ngôn chính trị) của các phe viết sử.
LTS: Những nhân vật lịch sử thường được sử gia các thời kỳ kiến tạo, “bồi đắp” hay có khi cố tình lờ đi một số thông tin, để nhằm tạo dựng nên những “tượng đài lịch sử” mang nhiều ý nghĩa khác nhau, phù hợp với tư tưởng của các thời đại khác nhau. Như vậy, rõ ràng là các thế hệ hậu sinh hầu như không có khả năng tiếp cận được với các nhân vật lịch sử - như là chính họ, tiếp cận với sự thật lịch sử, mà chỉ qua các lăng kính mang màu sắc chính trị. Nối tiếp những phân tích về quá trình xây dựng hình tượng Thái hậu Dương Vân Nga vốn luôn bị cuốn theo và phụ họa cho tư tưởng nam quyền (trong số 17-05.9.2018 trên Tia Sáng), TS. Trần Trọng Dương tiếp tục lật lại những nhận định của các sử gia về Đinh Tiên Hoàng.
Kỳ 1: Dưới bàn tay bồi đắp của các sử gia phong kiến
Tượng đài Đinh Tiên Hoàng tại phường Ninh Khánh, TP Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình. Nguồn: Zing
Từ các truyền thuyết dân gian, biểu tượng lịch sử này thể hiện các xu hướng tăng quyền của cả chính quyền lẫn nhân dân. Hai xu hướng này không chỉ diễn ra trong thời trung đại mà còn tiếp tục triển nở trong thời hiện đại dưới ngòi bút của các nhà nghiên cứu và các văn nghệ sĩ.
Trong con mắt của các sử gia, ông là một hoàng đế khai cơ cho nền chính trị Nho giáo ở Việt Nam, một hoàng đế có công thống nhất đất nước, hoàng đế dẹp loạn, một hoàng đế đại diện cho sức mạnh của nông dân/ nhân dân, một hoàng đế cờ lau khởi nghĩa, một hoàng đế của chính nghĩa…
Đinh Bộ Lĩnh là người nổi lên sớm nhất trong triều đại Hậu Ngô Vương. Từ năm 951 trở đi, ông tiếp tục xây dựng quân đội ở Hoa Lư, ngầm liên lạc với các lực lượng khác. Năm 954, khi Đinh Bộ Lĩnh 30 tuổi, Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập mất, Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn tiếp tục nắm quyền. Năm 965, Ngô Xương Văn chết trận tại hai thôn Đường – Nguyễn ở Thái Bình. Lợi dụng tình hình chính sự xáo trộn, Đinh Liễn trốn thoát về Hoa Lư với cha sau 15 năm làm con tin/tù binh ở kinh đô Cổ Loa (tr.208). Như vậy, Đinh Bộ Lĩnh đã là một lực lượng chính trị- quân sự chống đối triều nhà Ngô ít nhất là 15 năm (từ 951-965). Đến năm 965, Đinh Bộ Lĩnh 41 tuổi. Cái chết của Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn đã tạo nên biến động quan trọng trên chính trường nhà Ngô. Đến lúc này, ít nhất có 3 - 4 lực lượng quân sự chống lại nhà Ngô đã ra mặt, trong đó có Đinh Bộ Lĩnh ở Hoa Lư. Đến năm 967, khi Đinh Bộ Lĩnh đánh thắng được Đỗ Cảnh Thạc cùng 500 con cháu họ Ngô, và tiêu diệt lực lượng Ngô Xử Bình ở Cổ Loa, thì nhóm Đinh Bộ Lĩnh (gồm cả Phạm Phòng Át- Trần Thăng- Ngô Phó sứ) đã trở thành lực lượng mạnh nhất. Kể từ đây, Đinh Bộ Lĩnh tiếp tục đi đánh dẹp các Thứ sử/ Sứ quân khác. Các thế lực chính trị này, hoặc là đã chịu thất bại, hoặc là chịu đầu hàng. An Vương Ngô Nhật Khánh, trước tình thế đại bại của các lực lượng thứ sử, nên có lẽ sau đó buộc phải đầu hàng. Đinh Bộ Lĩnh xưng là Vạn Thắng Vương. An Nam chí lược ghi “Đinh Bộ Lĩnh cướp ngôi họ Ngô” (宋初丁部領簒呉)1, cũng không phải là không có lí do riêng.
Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế, đặt quốc hiệu Đại Cồ Việt, đặt đô ở Hoa Lư, bề tôi dâng tôn hiệu Đại Thắng Minh Hoàng Đế. Để tiếp nối tính chính danh, ông sử dụng phương thức hôn nhân ràng buộc. Bộ Lĩnh lấy Dương hậu, lại đem con gái gả cho Ngô Nhật Khánh, và đem em gái Khánh gả cho Đinh Liễn.
Hoàng đế dẹp loạn
Bản đồ loạn 12 sứ quân. Nguồn: Nghiencuulichsu
Như trong bài viết “Đinh Bộ Lĩnh và loạn Ngô Xử Bình” và “Có hay không loạn 12 sứ quân” đã chứng minh, các sử liệu “12 sứ quân tranh nhau làm loạn”, và “Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn” chỉ là cách “dựng hiện trường” của những dòng bút sử chiến thắng dành cho những kẻ đã chiến bại. Thực tế sử liệu cho thấy, Đinh Bộ Lĩnh “nổi lên/ loạn” sớm nhất ngay từ năm 951 đời nhà Ngô thời Nam Tấn Vương- Thiên Sách Vương. Ông “cát cứ” ở Hoa Lư trong vòng 15 năm cho đến khi Ngô Xương Văn chết trận. Ngô Xử Bình đà đao theo cái chết của Xương Văn, dẫn quân chính quy về đảo chính triều Ngô. Con cháu nhà Ngô thất thủ, chạy khỏi kinh đô Cổ Loa về với thuộc tướng Đỗ Cảnh Thạc. Đinh Bộ Lĩnh sau khi tiêu diệt 500 con cháu họ Ngô, lực lượng Đỗ Cảnh Thạc, tiếp tục đánh bại Ngô Xử Bình ở Cổ Loa, và nhiều Thứ sử khác. Sau khi chiến thắng và lên ngôi Hoàng đế, ông dĩ nhiên là người có đủ khả năng nhất để ra lệnh viết nên những dòng sử chiến loạn vào giai đoạn này. Tất cả những Thứ sử đã thua hiện lên như những kẻ làm loạn đất nước. Các sử quan thời Đinh hiện biết là Trịnh Tú và Vương Thiệu Tộ. Đây đều là hai nhân vật từng đi sứ nước Bắc và được nhà Tống cho làm Ngự sử Đại phu2.
Cách mô tả của Toàn thư cho thấy thủ pháp sắp đặt hiện trường của sử gia ăn lộc triều đình. Việc “loạn 12 sứ quân” được nhắc rất chi tiết trong hai vị trí ở Toàn thư. Một lần ở phần Ngô sứ quân. Một lần được chép trong Kỷ nhà Đinh thời Tiên Hoàng Đế. Câu mở đầu của cả hai đoạn đều là “các hùng trưởng tranh nhau nổi dậy chiếm cứ quận ấp” hay “bấy giờ 12 sứ quân đều tự xưng hùng trưởng, cát cứ đất đai”. Sức mạnh của hai đoạn sử liệu này là đã liệt kê chi tiết tên họ từng sứ quân, họ tự xưng ra sao (hàm ý tiếm xưng), cát cứ đất nào. Mặt khác hai đoạn sử liệu này cũng giấu nhẹm đi chức vụ Thứ sử của họ. Toàn thư ghi như sau: “1/ Ngô Xương Xí chiếm Binh Kiều; 2/ Kiểu Công Hãn (xưng là Kiểu Tam Chế) chiếm Phong Châu (nay là huyện Bạch Hạc); 3/ Nguyễn  Khoan (xưng là Nguyễn Thái Bình) chiếm Tam Đái; 4/ Ngô Nhật Khánh (xưng là Ngô Lãm Công) chiếm Đường Lâm (có sách chép là chiếm Giao Thủy) ; 5/ Đỗ Cảnh Thạc (xưng là Đỗ Cảnh Công) chiếm Đỗ Động Giang; 6/ Lý Khuê (xưng là Lý Lãng Công) chiếm Siêu Loại; 7/ Nguyễn Thủ Tiệp (xưng là Nguyễn Lệnh Công) chiếm Tiên Du, 8/ Lữ Đường (xưng là Lữ Tá Công) chiếm Tế Giang; 9/ Nguyễn Siêu (xưng là Nguyễn Hữu Công) chiếm Tây Phù Liệt; 10/ Kiểu Thuận (xưng là Kiểu Lệnh Công) chiếm Hồi Hồ (nay ở xã Trần Xá huyện Hoa Khê vẫn còn nền thành cũ); 11/ Phạm Bạch Hổ (xưng là Phạm Phòng Át) chiếm Đằng Châu ; 12/Trần Lãm (xưng là Trần Minh Công) chiếm Bố Hải Khẩu; gọi là 12 sứ quân.”3 Cách gọi “sứ quân” có lẽ đã được dùng thay cho các chức hiệu chính danh là “Thứ sử” hoặc các Thuộc tướng của nhà Ngô (đã được ban thực ấp). Các sử liệu Hán văn còn ghi cụ thể tên và chức một vài vị, như Phong châu Thứ sử Kiều Tri Hựu (tức Kiều Công Hãn, Kiều Tam Chế), Vũ Ninh châu Thứ sử Dương Huy (xem sử liệu đã dẫn trong bài “Đinh Bộ Lĩnh và loạn Ngô Xử Bình”. Các sử liệu nhà Tống còn ghi thêm chi tiết thú vị, Đinh Bộ Lĩnh khi dẹp loạn không phải ở Hoa Lư, mà với tư cách “Hoan châu Thứ sử”. Điều này là khác so với chính sử Việt Nam. Có lẽ, việc Đinh Bộ Lĩnh “dẹp loạn 12 sứ quân”4 với tư cách Thứ sử chỉ là thông qua lời tâu của sứ thần nhà Đinh trước nhà Tống. Ta biết, sứ giả không ai khác chính là Đinh Liễn. Nên, trong Tống sử, Đinh Liễn hiện lên còn rõ nét hơn cả Đinh Bộ Lĩnh. Việc Liễn “thêm nếm mắm muối” hay “cắt cúp các chi tiết” để củng cố tính chính thống cho triều đại mình là điều có thể hiểu được.
Trở lại với liệt kê trong Toàn thư về các sứ quân. Ta thấy, hầu như không có sứ quân nào tự xưng vương cả, mà phần lớn chỉ là xưng “công”. Nếu mà chỉ có xưng công thì chắc cũng chưa đủ chứng cớ để chứng minh tham vọng tranh đoạt của các vị này. Dẫu rằng, trong số đó hẳn cũng có người có lòng khác với nhà Ngô (như Trần Minh Công, Phạm Phòng Át, và cả Đinh Bộ Lĩnh nữa). Nhưng sử liệu cho thấy, chỉ có Phong châu Thứ sử Kiều Công Tiễn, và Vũ Ninh châu Dương Duy là cất quân đánh Ngô Xử Bình- người đã đánh phá kinh đô Cổ Loa. Trong nhóm ấy có hai người không thấy đoạn sử liệu trên chép xưng công đó là Ngô Xương Xí và Ngô Nhật Khánh. Nhưng ở đoạn sau trong Toàn thư có ghi rõ, Ngô Nhật Khánh xưng An Vương. Ông này xưng vương hẳn có lý do (mà theo ông là chính đáng). Bởi Ngô Nhật Khánh là con trai của Dương hậu (với Ngô Xương Văn). Còn Ngô Xương Xí là con trai thứ hai của Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập, em trai của Ngô Chân Lưu (Khuông Việt đại sư), được sinh ra ở Nam Sách khi Xương Ngập bị Tam Kha truy sát. Năm 965, khi Nam Tấn Vương chết, Ngô Xương Xí được ghi là “chiếm Bình Kiều” nay là Bình Kiều, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa; còn Ngô Nhật Khánh chiếm Đường Lâm (Nghệ An nay). Nghe tin chú mất, Cổ Loa thất thủ, Ngô Xương Xí vẫn tiếp tục giữ đất Bình Kiều (có thể khi đó ông là Hoan châu Thứ sử). Còn Ngô Nhật Khánh, khi nghe tin bố mất, đã xưng An Vương và tiếp tục quản lý châu Đường Lâm- đất mồ mả tổ tông.
Ngô Thì Sĩ cũng như nhiều sử gia khác trước ông, đều chỉ tập trung tô đắp hình tượng mà mình muốn có. Việc dựng nên sự nổi loạn của 12 sứ quân là một thao tác chính trị của sử thần Nho giáo. Đinh Bộ Lĩnh có công dẹp loạn 12 sứ quân kia thì đó là một công lao đáng để ca ngợi. Ngô Sĩ Liên bàn rằng: “vận hội của trời đất có lúc bĩ rồi lại thái, bắc nam cũng cùng một lẽ ấy. Thời Ngũ đại ở Bắc triều rối loạn thì Tống Thái Tổ nổi lên, 12 sứ quân ở Nam triều giành nhau thì Đinh Tiên Hoàng trổi dậy, chẳng phải ngẫu nhiên mà do trời đấy”5. Sử thần Lê Văn Hưu bình rằng: “Đinh Tiên Hoàng nhờ tài năng sáng suốt hơn người, dũng lược hơn đời, đương lúc nước Việt ta không có chủ, lũ hùng trưởng cát cứ, một lần nổi lên mà 12 sứ quân phải hàng phục”6.
Ở đây cần có đôi dòng phân tích về lối bình sử của các sử gia. Cả Ngô Sĩ Liên lẫn Lê Văn Hưu và Ngô Thì Sĩ đều góp tay chép soạn các bộ sử. Nhưng cả ba ông đều không để ý đến sự kiện Đinh Bộ Lĩnh đã nổi lên từ năm 951, trước cái gọi là “loạn 12 sứ quân” 15 năm. Các ông chỉ nhớ đến việc Đinh Bộ Lĩnh đã đánh bại 12 sứ quân đó, mà không để ý đến tuyến tính chi tiết của các lực lượng chính trị. Ngô Thì Sĩ thông luận rằng Ngô Xương Xí “đã lấy chút đèn tàn ở xứ Bình Kiều mà dự vào hàng ngũ sứ quân”7, hàm ý rằng ông này cũng nổi loạn như đám sứ quân nổi loạn, tức là tự chống lại chính triều đại Ngô nhà mình, tức là đứng về phe phi nghĩa. Chi tiết Ngô Nhật Khánh xưng An Vương nối chức cha, cũng đã bị bỏ qua, không bình luận đến8. Ít nhất ở đây, các sử gia đã bình luận trên những sử kiện đã được “tái cấu trúc” từ con mắt của người chiến thắng về những kẻ chiến bại. Những kẻ bại trận đã bị mô tả như là những lực lượng làm loạn; còn Đinh Bộ Lĩnh – người chiến thắng mới là người ở phe chính nghĩa, là người có công lập lại trị an.
Đại Thắng Minh Hoàng đế - biểu tượng nối lại quốc thống
Việc lên ngôi hoàng đế là một trong những lý do khiến các sử quan Nho giáo đời sau xưng tụng Đinh Bộ Lĩnh như là một biểu tượng quan trọng của mẫu hình nhà nho Đế vương ở Đại Việt. Họ Khúc ba đời nhưng mới chỉ là tự quản / tự trị với danh nghĩa Tiết độ sứ theo mô hình quan chế nhà Đường. Dương Đình Nghệ dù có chiến thắng nhưng ngay sau đó đã bị ám sát. Ngô Quyền đã xưng vương, nhưng ngoài chiến thắng Bạch Đằng, ông không để lại nhiều dấu vết có lợi mà thể chế nho giáo đời sau cần có để chứng minh cho tính chính thống của triều đại mình. Bình Vương Dương Tam Kha dù xưng vương như là một sự tiếp nối quyền lực của bố đẻ Dương Đình Nghệ và của ông anh rể Ngô Quyền; nhưng cũng chỉ được coi là kẻ tiếm đoạt triều đại, và phá hoại Ngô triều.
Phải đến Đại Thắng Minh Hoàng Đế, mọi yếu tố đã hội tụ đầy đủ, với các cứ liệu rõ rệt và có hệ thống. Vị Hoàng đế mới của một kỷ nguyên mới, đã tiến hành hàng loạt cải cách chính trị. Ông đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đặt đô ở Hoa Lư, cho xây dựng kinh đô mới, đắp thành trì, đào hào, xếp đặt triều nghi phẩm phục, lập Hoàng hậu, phong vương cho các con, đặt niên hiệu Thái Bình, đúc tiền lưu thông buôn bán. Về việc sắp đặt triều đình, ông quy định các cấp bậc văn võ cũng như tăng đạo. Dùng Nguyễn Bặc làm Định quốc công, dùng Lưu Cơ làm Đô hộ phủ Sĩ sư, Đinh Điền làm Ngoại giáp, cho Lê Hoàn làm Thập đạo Tướng quân, Ngô Chân Lưu (cháu đích tôn của Ngô Quyền, con trai cả của Thiên Sách Vương) làm Tăng thống ban hiệu là Khuông Việt đại sư, Ngô Nhật Khánh (con trai của Ngô Xương Văn) làm Phò mã, kiêm Hoan châu Thứ sử (như cũ). Phong Trương Ma Ni làm Tăng lục, và đạo sĩ Huyền Quang làm Sùng Chân Uy Nghi, Trần Thăng làm Phò mã Đô úy, phong Hạng Lang làm Hoàng Thái tử.
Chính vì có những hoạt động kiến thiết một mô hình nhà nước theo mẫu hình Nho giáo như thế, ông mới trở thành biểu tượng của các triều đại sau này. Đại Việt sử ký toàn thư ca ngợi: “vua tài năng sáng suốt hơn người” là dựa vào chữ “minh” trong đế hiệu, lại khen “dũng cảm mưu lược nhất đời” là dựa vào công tích “đánh dẹp hùng trưởng các phương”. Rất có khả năng đây là những lời ngợi ca của chính những sử quan đương thời. Từ vị trí của một người chống đối bên rìa nhà Ngô trong 15 năm, Đinh Bộ Lĩnh trở thành người làm nên lịch sử sau khi làm nên “muôn chiến thắng”. Những kẻ chiến bại dưới tay ông đều được xây dựng như những kẻ làm loạn. Cái thuật ngữ “loạn 12 sứ quân” và công nghiệp dẹp loạn 12 sứ quân ấy không biết đích xác được định danh từ khi nào. Nhưng sớm nhất nó có thể đã xuất hiện trong các bộ sử của thời Lý thời Trần (ví dụ như của Lê Văn Hưu), mà trên đó Ngô Sĩ Liên đã tái dụng. Hoặc giả, nó đã được viết ngay dưới bàn tay của các các Ngự sử Đại phu nhà Ngô như Triệu Tú, Vương Thiệu.
Việc lên ngôi Hoàng đế của Đinh Bộ Lĩnh được đánh giá là “nối lại quốc thống của Triệu Vũ Đế” (như lời trong Toàn thư). Chữ “quốc thống”(國統) là một khái niệm Nho giáo hay sử dụng, hoặc dùng để chỉ thể chế chính trị quốc gia, hoặc dùng để chỉ “tính chính thống” của thế lực cầm quyền vốn là một sự kế thừa tiếp nối từ triều đại trước đó trong lịch sử9. Ở đây, Triệu Vũ Đế đã được coi làm biểu tượng tiền lệ cho sự xưng đế của Đinh Bộ Lĩnh. Và đến lượt ông, Đinh Bộ Lĩnh được coi là vị hoàng đế chính thống đầu tiên của đất Việt sau nghìn năm bắc thuộc. Lý Nam Đế đã không được nhắc đến chắc chắn vì sự thất bại về quân sự của mình. Sự xưng đế mà thất bại dĩ nhiên không phải là một tiền lệ đẹp, nó vừa xui xẻo lại vừa dễ gây nguy hiểm cho những sử thần ngợi ca! Còn đối với Triệu Vũ Đế, các nhà Nho đã vượt qua khoảng cách ngàn năm lịch sử, và hàng trăm cây số về mặt không gian, cũng như các vấn đề về nguồn gốc dân tộc, để duy danh theo một phiên âm “Việt” (một thứ khác Hán) ở phương Nam, từ đó xây dựng nên cặp đôi biểu tượng đầu tiên cho nền hành chính Nho giáo tại Đại Việt.
Đến thế kỷ 17, khi lịch sử đã tiến rất xa, các triều đại Đinh- Lê- Lý- Trần- Lê đã thay nhau trị nước bảy tám trăm năm thì Triệu Vũ Đế lúc ấy không còn giá trị như một biểu tượng tiền lệ của mô hình Đế vương phương nam nữa, nên Đinh Tiên Hoàng mới được sử quan Lê – Trịnh ca ngợi là vị vua chính thống đầu tiên của nước Việt (chính thống chi quân tự thử 正統之君自此)10. Chúa Trịnh đã cho xây dựng Đền Vua Đinh và Đền Vua Lê để đưa biểu tượng lịch sử vào trong điển chế tế tự cấp quốc gia của triều đình. Sau khi xây đền, liền sai quan làm bia công đức với dụng ý nổi ở đầu ngọn bút: “có công với dân thì thờ, bậc đế vương của các triều đại trước khoanh tay rủ áo ở trong triều để mà trị nước, nêu rõ pháp độ điển chương, làm ra phép tắc lễ nhạc, ân đức ấy thấm đến dân này từ lâu. Vì đã có công lao to lớn với nước với dân muôn ngàn năm nay rồi, nên không thể quên được. Bởi thế người đời sau mới truy ơn công đức của họ, dựng đình xây miếu để bốn mùa xuân thu phụng thờ báo đáp”11. Tâm linh hóa lịch sử và thần hóa các vị đế vương là một thủ pháp chính trị để tăng tính chính thống cho các triều đại. Đây là một hành vi thực hành tín ngưỡng mà mọi thể chế chính trị đều sử dụng, kể cả ở thời điểm hiện tại. 
Đại Việt sử ký toàn thư là bộ sử đầu tiên ghi chép huyền thoại dân gian về hình ảnh Đinh Bộ Lĩnh như là một đứa trẻ mồ côi cha, cùng tập trận với đám trẻ chăn trâu. Câu chuyện này được sáng tác về sau (ít nhất là trước Lê Văn Hưu 1272, Phan Phu Tiên 1455, Ngô Sĩ Liên 1479). Và với tinh thần văn – sử - triết bất phân, các sử gia đã chép lại huyền thoại này vào bộ sử chính thống của quốc gia nhằm chứng minh cho lý thuyết “thiên mệnh” của Nho giáo. “Thiên mệnh” đã được thể hiện thông qua việc xây dựng hình xây dựng hình tượng một cậu bé thông minh tính trời, có khả năng lãnh đạo đám đông, làm “điềm báo tương lai” cho sự lên ngôi tất yếu (đã biết) sau này. Nào là “bọn trẻ tự biết kiến thức không bằng” nên “suy tôn làm trưởng”, “bọn chúng chéo tay làm kiệu khiêng và cầm hoa lau đi hai bên để rước như nghi trượng thiên tử”, những mô tả này hô ứng với các đoạn viết của sử quan: “tài năng sáng suốt hơn người”, “bề tôi dâng tôn hiệu là Đại Thắng Minh Hoàng Đế”. Đến khi có mâu thuẫn và thất thế trước Đinh Dự, thì Đinh Bộ Lĩnh lại được hai con rồng vàng hộ vệ để đánh bại ông chú ruột. Rồng hộ mạng, như quan niệm của dòng sử bút Nho gia, là biểu tượng cho quyền lực đế vương. Như vậy, một tác phẩm văn học dân gian đã được đưa vào chính sử để bù lấp khoảng trống sử liệu về Đinh Bộ Lĩnh trong vòng 35 năm từ lúc cha mất (tuổi nhi đồng, trên dưới 7 tuổi, tức khoảng trước sau mốc năm 930) cho đến năm 965. Các tình tiết và motif của câu chuyện đã được điều hướng đến mục đích duy nhất: xây dựng hình ảnh một vị hoàng đế thiên định được sự ủng hộ của cộng đồng nhân dân (đám trẻ mục đồng, bà mẹ thân sinh, và các phụ lão).
(Đón đọc kỳ 2Đinh Tiên Hoàng dưới con mắt các sử gia hiện đại)

--------
1 Lê Trắc, 1335,  An Nam chí lược, Sđd., 2002, tr.224.
Tống sử, Q.488. trong “An Nam truyện: ghi chép về Việt Nam trong chính sử Trung Quốc xưa”, Châu Hải Đường dịch và biên soạn, Nxb. Hội Nhà Văn. Hà Nội, 2018, tr.22.
3 [Ngô Sĩ Liên, 1479, Toàn thư, 1998,  tr.208-209, 211.]
4 Các sử gia đời sau dựa trên hiện trường này để bình luận theo những chiều hướng khác nhau: “Lúc ấy hai vua Ngô Tuy mất. Xương Xí là dòng dõi Thiên hoàng, cũng như Đông Chu Quân nhà Chu, Hoài Dương Vương nhà Hán, nếu các thổ hào cùng nhau phục tòng, hợp hơn mười bọn nhỏ, làm một nước lớn, tôn Ngô Xương Xí lên làm thiên hạ cộng chủ, để nối dòng họ Ngô, mà các bộ sứ quân thời tự trị lấy trong bộ mình,... Về sau, Đinh Tiên hoàng vốn xưng Vạn Thắng, thì thế lực không thể chống nổi, nhưng vẫn là người Nam làm vua nước Nam, tưởng 12  sứ quân có linh thiêng, cũng nên ngậm cười dưới suối.” [Nguyễn Đình Tuân  soạn, Đại Việt quốc sử ký cải lương <大 越 國 史 改 良>, 1 bản viết, 774 tr, 30 x 21, 1 tựa. A.1146/1-2, Q1. T.65a-66b; Ngô Giáp Dậu 吳 甲 酉 soạn, Trung học Việt sử toát yếu中學越史撮要, Phạm Văn Thụ 范 文 樹 duyệt, Đoàn Triển 段 展 , Phạm Văn Thụ 范 文 樹, Cao Xuân Dục 高 春 育 đề tựa. Q.3. In tại số nhà 22 phố Hàng Bè, Hà Nội, 1911. tr.5b. Kí hiệu: VHv.987/1 – 4. VNCHN.
Đại Việt sử ký tiền biên, Nxb KHXH. H. 1997, tr. 148.
Đại Việt sử ký tiền biên, Nxb KHXH. H. 1997, tr. 153.
Đại Việt sử ký tiền biên, Nxb KHXH. H. 1997, tr. 149.
Toàn thư chỉ chép Phò mã Ngô Nhật Khánh rạch má vợ, bỏ trốn vào Chiêm Thành và chết cùng đám viện binh ở cửa Đại Ác - Tiểu Khang. Xem thêm [Đặng Xuân Bảng, 1905, Việt sử cương mục tiết yếu, Hoàng Văn Lâu dịch, Nxb. KHXH. H. 2000, tr. 62].
9 La Trúc Phong, 1992, Hán ngữ đại từ điển, T3. Tr. 642.
10 Văn bia Tiền triều Đinh Tiên Hoàng đế công đức bi ký tịnh minh 前朝丁先皇帝功德碑記並銘 khắc năm Hoằng Định 9 (1608), Đền vua Đinh (Ninh Bình), thác bản Viện NC Hán Nôm, ký hiệu 29483-29484. Bia này do Nguyên soái Quốc chính phụ Bình An Vương Trịnh Tùng cho khắc.
11 Tiền triều Đinh Tiên Hoàng Đế miếu công đức bi ký 前朝丁先皇帝廟功德碑記, Đền Vua Đinh (Ninh Bình), thác bản Viện NC Hán Nôm, ký hiệu 15853-15854. [bản dịch của Mai Hồng, chuyển dẫn Nguyễn Danh Phiệt, 1990, sđd. Tr.170-178.]

Thứ Ba, 9 tháng 10, 2018

Năm 1738, chúa Nguyễn Phúc Thụ qua đời, con trưởng là Nguyễn Phúc Khoát lên nối ngôi, người thời đấy gọi ông là Chúa Võ. Chúa Võ đã giúp hoàn thành việc mở mang lãnh thổ Đại Việt, nhưng cũng vì ông mà cơ nghiệp các đời chúa Nguyễn bị lụi tàn. Phải chờ đến hàng chục năm sau, hậu duệ của Chúa Võ mới giúp lãnh thổ nước ta rộng lớn tới cực điểm.

Cao Miên dâng đất Long An, Tiền Giang

Khi chúa Nguyễn sáp nhập các vùng đất của Chiêm Thành ở Bình Thuận và Ninh Thuận vào lãnh thổ, một số người Chăm đã sang Cao Miên để định cư sinh sống. Thế nhưng sau đó triều đình Cao Miên liên tục quấy nhiểu ức hiếp những người Chăm sinh sống ở đây.
Xem người Chăm là dân tộc thuộc quốc gia của mình, năm 1753, Chúa Võ sai Thiện Chính và Nguyễn Cư Trinh tiến sang Cao Miên để giải cứu người Chăm.
Năm 1754, Thiện Chính và Nguyễn Cư Trinh từ Gia Định chia quân làm hai hướng tiến sang Cao Miên. Quân Cao Miên đại bại, Quốc Vương là Nặc Nguyên phải chạy trốn đến Tầm Phong Thu (nay là tỉnh Kampong Thom), các Phủ ở Cao Miên đều đầu hàng.
Mùa xuân năm 1755, thống suất Thiện Chính rút về Mỹ Tho trước, còn những người Chăm đi sau. Nhưng trên đường đi, người Chăm bất ngờ bị hơn 1 vạn quân Cao Miên tập kích, phải đem hết xe chất thành lũy để ngăn ngăn quân Cao Miên đồng thời cho người đi cấp báo.
Các đời chúa Nguyễn mở rộng lãnh thổ Đại Việt – Phần cuối: Lãnh thổ rộng lớn cực điểm
Quân Chúa Nguyễn rút về trước. (Tranh minh họa của họa sĩ Đức Hòa trong bộ “Lịch sử Việt Nam bằng tranh” – Sử dụng dưới sự đồng ý của tác giả)
Thiện Chính vì sông sâu đầm lầy nên không thể đến được, Nguyễn Cư Trinh lập tức đưa quân ngay đến đánh khiến quân Cao Miên phải rút. Nguyễn Cư Trinh đưa hơn 5.000 người Chăm đến chân núi Bà Dinh (tức núi Bà Đen ngày nay) an toàn.
Vì chuyện này, quân Chúa Nguyễn lại tiến sang Cao Miên một lần nữa. Quân Cao Miên bị đánh tan tác, quốc vương Nặc Nguyên chạy đến Hà Tiên nương tựa Mạc Thiên Tứ (hậu duệ Mạc Cửu, người đã dâng cho Chúa Nguyễn vùng đất Hà Tiên và đảo Phú Quốc), nhờ Mạc Thiên Tứ làm trung gian, đổ lỗi việc sát hại người Chăm là do tướng Chiêu Chùy Ếch làm. Đồng thời quốc vương Nặc Nguyên xin dâng hai phủ là Tầm Bôn (tức Tân An, Long An ngày nay), Lôi Lạt (tức Gò Công, Tiền Giang ngày nay), xin cống nộp lễ vật còn thiếu 3 năm trước đó.
Các đời chúa Nguyễn mở rộng lãnh thổ Đại Việt – Phần cuối: Lãnh thổ rộng lớn cực điểm
Trong thời gian ngắn, quân Chúa Nguyễn hai lần liên tục đánh sang Cao Miên. (Tranh minh họa của họa sĩ Đức Hòa trong bộ “Lịch sử Việt Nam bằng tranh” – Sử dụng dưới sự đồng ý của tác giả)
Chúa Võ không đồng ý mà yêu cầu Cao Miên phải giao cả kẻ sát hại người Chăm là tướng Chiêu Chùy Ếch. Quốc vương Nặc Nguyên báo rằng đã cho xử tử viên tướng này rồi. Chúa Nguyễn không tin nên yêu cầu giao cả gia đình tướng Chiêu Chùy Ếch thì Nặc Nguyên xin Chúa Nguyễn tha cho họ. Chúa Võ cho rằng quốc vương Cao Miên lừa dối nên không đồng ý.
Tuy nhiên Nguyễn Cư Trinh đã dâng sớ tâu nhắc lại kế “tằm ăn dâu” và khuyên Chúa nên nhận 2 phủ này, lời sớ tâu có đoạn rằng:
Từ xưa, sở dĩ dùng đến binh, chẳng qua là muốn giết đứa cừ khôi, mở mang bờ cõi mà thôi. Nay Nặc Nguyên đã hối quá, biết nộp đất hiến của. Nếu không cho y hàng, thì y chạy trốn; mà từ Gia Định đến La Bích, đường sá xa xôi, không tiện đuổi đánh. Vậy muốn mở mang bờ cõi, chi bằng hãy lấy hai phủ ấy, giữ chặt phía sau cho hai dinh (Phiên Trấn và Trấn Biên). Năm xưa, đi mở phủ Gia Định, trước phải mở phủ Hưng Phước (Biên Hoà), rồi mới mở đến phủ Lộc Dã (Đồng Nai) để quân dân đoàn tụ, rồi mới mở đất Sài Côn. Đó là cái kế ‘tằm ăn dâu’ đó”.
Chúa Võ thuận theo lời tâu này, đồng ý nhận 2 phủ mới.

Cao Miên tiếp tục dâng đất Trà Vinh, Bến Tre, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Kiên Giang, Cà Mau

Năm 1757 Nặc Nguyên mất, chú họ là Nặc Nhuận tạm nắm quyền. Nhưng Nặc Nhuận muốn ngôi Vương nên tấu lên Chúa Võ phong xin phong tước Vương cho mình. Chúa Võ yêu cầu Nặc Nhuận phải dâng hai vùng đất là Trà Vang (nay là Trà Vinh và Bến Tre), Ba Thắc (nay là Sóc Trăng và Bạc Liêu) mới chuẩn tấu.
Thế nhưng sang năm 1758, Nặc Nhuận bị con rể là Nặc Hinh nổi loạn giết chết để cướp ngôi. Con của Nặc Nhuận là Nặc Ong Ton chạy sang Hà Tiên lánh nạn và nhờ Mạc Thiên Tứ cầu cứu với Chúa Nguyễn đánh đuổi Nặc Hinh giành lại ngôi Quốc Vương Cao Miên cho mình.
Bạc Liêu xưa kia. (Ảnh từ dauxuanambo.blogspot.hk)
Chúa Võ nhận lời, sai Trương Phúc Du đem quân thảo phạt. Ninh Hinh thua chạy đến Tầm Phong Xoài thì bị phiên liêu là Ốc Nha Uông giết chết.
Chúa Võ đồng ý sắc phong cho Nặc Ong Ton là Quốc Vương nhưng yêu cầu phải dâng thêm vùng đất Tầm Phong Long (tức An Giang, Đồng Tháp bây giờ).
Ngoài ra Nặc Ong Ton vì để tạ ơn Mạc Thiên Tứ đã cưu mang giúp đỡ mình khi hoạn nạn nên đã tặng riêng 5 phủ là: Kompong Som (Vũng Thơm), Kampot (Cần Bột), Chal Chun (Chưn Rùm hay Chân Sâm), Bantey M éas (Sài Mạt) và Raung Veng (Linh Quỳnh). Tuy nhiên Mạc Thiên Tứ đã dâng hết cả 5 phủ này cho chúa Nguyễn. 5 phủ này đều thuộc tỉnh Kiên Giang và Cà Mau ngày nay.

Hoàn tất công cuộc khai phá phương Nam

Năm 1758, cả một vùng đất Nam Bộ đã thuộc về Chúa Nguyễn. Công cuộc Nam tiến của các đời chúa Nguyễn đến đây cũng kết thúc.
Nếu vào thời điểm tháng 10/1558, thời Chúa Nguyễn đầu tiên là Nguyễn Hoàng chỉ có hai vùng đất là Thuận Hóa và Quảng Nam còn hoang sơ chưa được khai phá…
lãnh thổ Việt Nam
Thời Chúa Nguyễn đầu tiên là Nguyễn Hoàng chỉ có phần đất Thuận Hóa và Quảng Nam. (Ảnh từ tlichsunuocvietnam.com)
Thì đúng 200 năm sau, trải qua 8 đời Chúa Nguyễn đến năm 1758, lãnh thổ Đàng Trong đã vô cùng rộng lớn, trải dài hết vùng đất Nam Bộ đến tận vùng cực Nam, định hình cho nước Việt Nam ngày nay. Đó là công lao các đời Chúa Nguyễn tạo thành.
Bản đồ Đại Việt năm 1758. (Ảnh từ tlichsunuocvietnam.com)
Một phút lơ là để loạn thần thao túng dẫn đến mất nước
Sau khi lãnh thổ rộng lớn, đất nước cường thịnh, Chúa Võ lại chỉ lo tận hưởng cuộc sống xa hoa, không còn tha thiết với việc nước nữa. Chúa Võ bị cậu là Trương Phúc Loan dụ dỗ đi vào con đường nữ sắc không quan tâm đến vận nước, để từ đó Trương Phúc Loan có cơ hội nắm hết quyền hành, khiến vận nước rối bời, muôn dân ca thán.
Năm 1765 Chúa Võ mất, viết di chiếu nhường ngôi cho con là Nguyễn Phúc Luân (thân phụ của Nguyễn Phúc Ánh tức vua Gia Long sau này). Biết Nguyễn Phúc Luân là người thông minh khó mà uy hiếp, Trương Phúc Loan đã bố trí người giết chết cận vệ rồi bắt giam Nguyễn Phúc Luân, đồng thời phong Nguyễn Phúc Thuần mới 11 tuổi lên nối ngôi. Ngay sau đó Nguyễn Phúc Luân cũng chết trong ngục. Mọi việc đều do Trương Phúc Loan thao túng khiến Đàng Trong ngày càng suy yếu.
Các đời chúa Nguyễn mở rộng lãnh thổ Đại Việt – Phần cuối: Lãnh thổ rộng lớn cực điểm
Nguyễn Phúc Thuần tuổi còn nhỏ lên ngôi, do Trương Phúc Loan sắp đặt. (Tranh minh họa của họa sĩ Đức Hòa trong bộ “Lịch sử Việt Nam bằng tranh” – Sử dụng dưới sự đồng ý của tác giả)
Năm 1767, Lại bộ Thương thư Nguyễn Cư Trinh, trụ cột nhà Nguyễn qua đời, không còn ai có sức ngăn cản Trương Phúc Loan nữa. Những người có tài có tâm với nước đều bị Trương Phúc Loan tìm cách hãm hại, quốc khố ngày càng kiệt quệ
Có được quyền hành Trương Phúc Loan tha hồ vơ vét của cải mặc cho quốc nạn cũng như dân tình đói khổ, thuế sản vật các mỏ vàng Thu Bồn, Đồng Hương, Trà Sơn, Trà Vân… đều rơi vào tay Loan. Loan tổ chức thu thuế ở các cảng sông, cảng biển quan trọng và thu thuế khai thác các nguồn tài nguyên, khoáng sản ở Quảng Nam mỗi năm ước đạt bảy tám vạn quan tiền bỏ vào túi riêng, chỉ nộp công khố khoảng một hai phần. Thêm vào đó, Loan công khai bán quan, chạy ngục nên đã thâu tóm được một lượng tài sản kếch xù. 
Sử sách ghi lại rằng, có năm ngập lụt, nước tràn vào cả dinh thự của Trương Phúc Loan ở Phần Dương. Sau khi nước rút ông ta phơi vàng bạc ở sân cho khô ráo làm sáng rực cả một góc trời. Cả nhà họ Trương chia nhau nắm giữ mọi chức vụ chủ chốt trong triều đình.
Trương Phúc Loan không quan tâm đến đời sống người dân, mặc cho dân đói khổ vì thiên tai, ông ta còn tăng các khoản sưu thuế rất nặng. Cuộc sống người dân Đàng Trong đang phồn thịnh bỗng chốc trở nên nghèo đói lầm than, người dân oán thán gọi Trương Phúc Loan là Trương Tần Cối. (Tần Cối là một gian thần bán nước thời Nam Tống bên Trung Quốc) 
Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn nổ ra đã đánh đổ Chúa Nguyễn. 8 đời Chúa Nguyễn đều có công Nam tiến mở rộng lãnh thổ, đời sống Đàng Trong rất sung túc, nhưng Chúa Võ cuối đời chỉ lo hưởng lạc mà bị quyền thần thao túng, khiến cơ nghiệp sụp đổ.
Nhà Nguyễn lấy lại Giang Sơn, mở rộng lãnh thổ lớn gấp hơn 1,7 lần ngày nay
Sau này hậu duệ Chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Ánh (cháu nội của Chúa Võ Nguyễn Phúc Khoát, con của Nguyễn Phúc Luân) đã đánh thắng được Tây Sơn, thống nhất toàn cõi lãnh thổ, lên ngôi Vua vào năm 1802, hiệu là Gia Long, lập ra triều đại nhà Nguyễn.
Các đời vua Gia Long và Minh Mạng, Việt Nam ngày càng hùng mạnh khiến Ai Lao (tức Lào ngày nay) phải thần phục, xin được đặt dưới sự bảo hộ và sáp nhập vào lãnh thổ Việt Nam.
Các đời chúa Nguyễn mở rộng lãnh thổ Đại Việt – Phần cuối: Lãnh thổ rộng lớn cực điểm
Nhà Nguyễn khôi phục và mở rộng cơ đồ, khiến lãnh thổ Đại Nam đạt đến cực thịnh. (Tranh minh họa của họa sĩ Đức Hòa trong bộ “Lịch sử Việt Nam bằng tranh” – Sử dụng dưới sự đồng ý của tác giả)
Nhà Nguyễn cũng đưa quân sang Cao Miên đánh bại quân Xiêm la, khiến Cao Miên mong được bảo hộ, đồng thời sáp nhập hầu hết các vùng đất Cao Miên vào lãnh thổ Việt Nam.
Đến năm 1835 thời vua Minh Mạng, với các vùng đất từ Ai Lao và Cao Miên sáp nhập vào, lãnh thổ Việt Nam đạt đến cực điểm, rộng 575.000 km2 tức gấp hơn 1,7 lần so với Việt Nam bây giờ (diện tích Việt Nam hiện là 331.698 km2, theo cổng thông tin điện tử chính phủ năm 2009).
lãnh thổ Việt Nam
Bản đồ Việt Nam năm 1835 sau khi sáp nhập các vùng đất của Lào và Campuchia (Ảnh từ tlichsunuocvietnam.com)
(Hết)
Trần Hưng
Xem thêm:

Thứ Hai, 8 tháng 10, 2018

Năm 1687, chúa Nguyễn Phúc Tần mất. Nguyễn Phúc Thái lên ngôi, thời kỳ này lãnh thổ Đàng Trong không có gì thay đổi. Năm 1691, Nguyễn Phúc Chu lên ngôi nối tiếp các đời chúa Nguyễn trước đó, mở rộng lãnh thổ hơn về phương Nam.
Nguyễn Phúc Chu sinh vào tháng 5 (âm lịch) năm Ất Mão 1675, ông là con cả của Nghĩa vương Nguyễn Phúc Thái và bà Tống Thị Lĩnh (người ở Tống Sơn, Thanh Hóa).
Sách Đại Nam thực lục có ghi chép rằng:
“Trước kia, năm Giáp dần, mùa thu, ở phương Tây Nam trên trời mở ra một lỗ, có mây sắc vận quanh, ở giữa một luồng ánh sáng rực trời tỏa ngay vào chỗ nhà mẫu hậu ở, người thức giả cho là điềm Thánh. Năm sau chúa đúng kỳ giáng sinh, mùi thơm nức nhà”.
Cũng theo sách Đại Nam thực lục thì thuở nhỏ Nguyễn Phúc Chu không chỉ say mê đèn sách mà còn chăm chỉ luyện võ thuật, lớn lên không chỉ văn hay mà võ cũng rất giỏi.

Các đời chúa Nguyễn mở rộng lãnh thổ Đại Việt như thế nào? – Phần 4: Chiêm Thành quy thuận, Cao Miên dâng đất
Nguyễn Phúc Chu say mê đèn sách. (Tranh minh họa của họa sĩ Đức Hòa trong bộ “Lịch sử Việt Nam bằng tranh” – Sử dụng dưới sự đồng ý của tác giả)

Dùng Phật Pháp giáo hóa muôn dân, xã hội cực thịnh

Khi lên ngôi Nguyễn Phúc Chu mới 16 tuổi. Ngay năm đó ông cho giảm một nửa thuế ruộng cho dân. Người thời bấy giờ gọi ông là Quốc Chúa.
Mới lên ngôi Quốc Chúa đã chiêu hiền đãi sĩ, loại bỏ nịnh thần, dùng người có chí khí, nghe lời người ngay thẳng bãi bỏ thói xa hoa lãng phí.
Là nguời mộ đạo, chúa Nguyễn Phúc Chu chủ trương hồng dương Phật Pháp. Ông cho xây dựng một loạt chùa miếu; mở hội lớn ở chùa Thiên Mụ, Mỹ Am; phát tiền gạo cho người nghèo.

Chùa Thiên Mụ ở Huế. (Ảnh từ khoahocnet.com)

Quốc Chúa dùng Phật Pháp để giáo hóa muôn dân, khiến đạo đức thăng hoa, xã tắc ổn định, người dân có cuộc sống sung túc. Đây cũng là nền tảng giúp cho các cuộc Nam tiến, mở rộng lãnh thổ thành công.
Năm 1710, nhân ngày Phật đản, Chúa cho đúc chuông chùa Thiên Mụ nặng 2.021 kg, cao 2,5 m, đường kính 1,2 m. Tiếng vang của chuông bao phủ khắp kinh thành, tiếng chuông cũng đánh dấu giai đoạn phát triển đến cực thịnh ở Đàng Trong, vì một xã hội có niềm tin tín ngưỡng thì sẽ ổn định, người người đều quy thuận.

Sáp nhập Bình Thuận, Ninh Thuận, Hà Tiên, đảo Phú Quốc vào lãnh thổ

Từ năm 1690 đến 1692, vua Chiêm Thành là Bà Tranh thường cho quân vượt biên giới đến đốt phá giết hại dân Việt ở hai Phủ Thái Khang và Diên Ninh (thuộc tỉnh Khánh Hòa ngày nay). Chúa Nguyễn Phúc Chu sai Nguyễn Hữu Cảnh đem binh đi đánh.
Nguyễn Hữu Cảnh đánh bại quân Chiêm Thành, đuổi theo tận đến kinh thành nước Chiêm, bắt được vua Chiêm giải về Phú Xuân.
Chúa Nguyễn cho sáp nhập đất Chiêm Thành vào lãnh thổ (nay là tỉnh Bình Thuận, Ninh Thuận), đặt tên là trấn Thuận Thành, lập ra phủ Bình Thuận.

Người Chăm Pa ở Mỹ Sơn. (Ảnh qua vietnamspirittravel.com)
Sau khi Bà Tranh chết tại Huế, em là Kế Bà Tử nghe theo một người Mãn Thanh là A Ban tập hợp quân nổi lên. Năm 1693, lợi dụng lúc Nguyễn Hữu Cảnh đã đi Tây chinh, quân Chiêm đánh bại quân chúa Nguyễn, quân cứu viện từ Bà Rịa đến cũng bị đánh bại.
Quân Chiêm đánh chiếm lại Phan Rí, rồi bao vây Phan Rang. Quân chúa Nguyễn ít hơn nên giữ chặt thành khiến quân Chiêm phải lui binh.
Năm 1694, A Ban lại cho quân đến vây Phan Rang. Quân Chúa Nguyễn từ Bình Khang đến ứng cứu khiến A Ban phải lui binh.
Nhận thấy người Mãn Thanh là A Ban chính là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến người Chiêm nổi dậy, chúa Nguyễn cho quân tập trung đánh A Ban, khiến A Ban thua trận phải chạy trốn.
Lúc này để giữ yên người Chiêm, tránh họ nổi loạn, chúa Nguyễn đã đồng ý ký hòa ước cho khôi phục vương quốc Chăm Pa với hình thức là một khu tự trị với tên là Thuận Thành Trấn, trực thuộc lãnh thổ Đàng Trong. Chúa Chăm Pa được gọi là Trấn Vương.
Sau đó, mối quan hệ với Chăm Pa diễn ra tốt đẹp, người Chăm Pa không còn nổi loạn nữa.
Chúa Nguyễn Phúc Chu có nhiều động thái để khẳng định và cai quản các cùng đất phía Nam như: Đặt phủ Bình Thuận cai quản các vùng đất của người Chăm Pa là Phan Rang, Phan Rí; đặt phủ Gia Định; chia đất Đông Phố, lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phúc Long, dựng dinh Trấn Biên (Biên Hòa); lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, lập xã Minh Hương.
Tháng 8/1708, một người Hoa tên là Mạc Cửu đang khai phá ở vùng Hà Tiên dâng thư lên chúa Nguyễn xin được quy thuận, sáp nhập vùng Hà Tiên, đảo Phú Quốc vào lãnh thổ Đàng Trong. Chúa nhận lời và phong Mạc Cửu làm Thống binh trấn giữ vùng Hà Tiên.

Cao Miên dâng vùng đất Mỹ Tho và Vĩnh Long

Mùa xuân năm 1698, vua Nặc Yêm của Cao Miên cho quân đi cướp bóc dân buôn người Việt. Triều đình liền sai Nguyễn Hữu Cảnh đi kinh lược đất Cao Miên. Vua Nặc Yêm không chống cự được phải đầu hàng và xin được cống nạp như cũ.

chúa Nguyễn mở rộng lãnh thổ
Tượng Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh trong đình Bình Kính, xã Hiệp Hòa, Biên Hòa. (Ảnh từ wikipedia.org)

Nguyễn Hữu Cảnh lấy đất Nông Nại đặt làm phủ Gia Định, lập đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, dựng nên dinh Trấn Biên, lập xứ Sài Côn làm huyện Tân Bình, lập dinh Phiên Trấn. Ông sắp đặt các quan chức địa phương để cai quản vùng đất này.
Sách Đại Nam liệt truyện ghi chép lại rằng:
Nguyễn Hữu Cảnh đã chiêu mộ dân phiêu tán từ châu Bố Chánh (nay là Quảng Bình) trở vào Nam vào đất ấy (tức đất Trấn Biên và Phiên Trấn), rồi đặt xã thôn, phường ấp, định ngạch tô thuế và ghi tên vào sổ đinh […] đất đai mở rộng hơn ngàn dặm, dân số có thêm bốn vạn hộ. 
Năm 1725, chúa Nguyễn Phúc Chu qua đời, Nguyễn Phúc Thụ lên thay, người thời đấy gọi là Ninh vương (tục gọi là chúa Ninh). Ông cũng là người mộ đạo, tiếp tục chí hướng của cha hồng dương Phật Pháp, giúp Đàng Trong duy trì giai đoạn cực thịnh.
Năm 1729, một người gốc Lào là Prea Sot sách động người Cao Miên tàn sát người Việt ở vùng Banam, rồi cho quân quấy nhiễu Sài Gòn.
Tướng Trương Phước Vĩnh sai cai cơ Đạt Thành ra ngăn lại nhưng thất bại. Sau đó Giám quân cai đội Nguyễn Cửu Triêm đi đánh, quân Cao Miên thua chạy về Vũng Gù (thuộc Mỹ Tho ngày nay). Quân chúa Nguyễn tiến tiếp vào Vũng Gù đánh bại loạn quân của Cao Miên.
Lúc này vua Cao Miên sợ bị vạ lây, liền gửi thư giải thích rằng mọi việc đều do Prea Sot gây ra, đồng thời xin đem Peam Mesar (Mỹ Tho) và Longhôr (Vĩnh Long) dâng chúa Nguyễn để cầu hòa. Chúa Nguyễn tiếp nhận các vùng đất này năm 1732.
Nhận thấy vùng đất phía Nam đã rất rộng lớn, chúa Ninh cho lập châu Định Viễn, dựng dinh Long Hồ, bổ nhiệm quan lại địa phương rồi đưa thêm dân Việt đến khai hoang lập nghiệp.

Bản đồ Đại Việt năm 1732. Thuận Thành Trấn là vùng tự trị. (Ảnh từ lichsunuocvietnam.com)

(Còn tiếp)
Trần Hưng
Xem thêm: